Khi đột ngột qua đời ở tuổi 38, Lev Semenovich Vygotsky đã không kịp xuất bản các tác phẩm quan trọng nhất của mình, chủ yếu tập trung vào vấn đề phát triển của trẻ em. Nửa thế kỷ sau, các tác phẩm chính của ông mới lần lượt ra mắt, và ngay lập tức ông được thừa nhận như một tác giả đi tiên phong, là “Mozart của tâm lý học”.
Vào những năm 1920, L.S Vygotsky (1896-1934) cùng với các nhà tâm lý học Xô-viết khác đã nhận sứ mệnh xây dựng một lý thuyết về sự phát triển của con người dựa nền tảng trên chủ nghĩa Mác. Nguyên tắc quan trọng trong cách tiếp cận hành vi của Vygotsky là: “Ở con người, các quá trình tinh thần đã đạt tới tầm cao bởi vì chúng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các phương tiện văn hóa”.
Vygotsky tập trung chủ yếu vào vấn đề phát triển của trẻ em. Ảnh: Twitter
Vygotsky đã dành hết toàn bộ trí lực và sự bền bỉ tuyệt vời cho công việc nghiên cứu của mình. Ông đọc hầu như toàn bộ các công trình nghiên cứu đáng chú ý của thời đại: ngôn ngữ, nhân chủng, tâm lý học, giáo dục... Năm 1934, cái chết đột ngột, hậu quả của căn bệnh lao phổi, khiến các công trình nghiên cứu của ông bị dừng đột ngột. Tuy nhiên, sau gần một thế kỷ, các công trình của Vygotsky (tập trung chủ yếu vào vấn đề phát triển của trẻ em) đã tạo ra một cơ sở lý thuyết vững chắc cho phép tích hợp các kết quả thu nhận được từ các chuyên ngành khoa học xã hội riêng rẽ, từng bị chia tách một cách giả tạo.
Cuốn sách vừa được ấn hành vào tháng 7 năm nay. Ảnh: NXB
“Nguồn gốc xã hội của Trí khôn” là một tuyển tập các bài viết rải rác nằm trong số những công trình thú vị nhất của Vygotsky, bao gồm một số bài báo chưa từng được xuất bản ở Liên Xô. Như Cole và Scribner (hai người tuyển chọn) đã lưu ý : những ý tưởng mà Vygotsky phát triển thật sự hấp dẫn hơn nhiều so với số phận lịch sử của nó, và dường như các nhà nghiên cứu Phương Tây càng ngày càng tin rằng các công trình của Vygotsky có độ tin cậy vững chắc hơn những lý thuyết của Jean Piaget, lý thuyết đã thống trị tâm lý học phát triển trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Sở dĩ các công trình của Vygotsky được đông đảo các nhà nhân chủng học, sinh học, ngôn ngữ và văn hóa quan tâm bởi vì nó tập trung vào các quá trình tâm lý bậc cao giúp phân biệt con người (như một loài) với họ hàng gần nhất của chúng, loài vượn lớn.
Vygotsky đề cập đến trí nhớ và trí thông minh, việc sử dụng các công cụ và biểu tượng trong chơi, vẽ, ngôn ngữ và viết. Ông phân biệt các ký hiệu cấp một, chẳng hạn như từ và hình ảnh, với các ký hiệu cấp hai, chẳng hạn như chữ viết. Một trong những ý tưởng thú vị của ông là việc sử dụng các biểu tượng bắt nguồn từ việc tách rời ý nghĩa của hành động, chẳng hạn như khi một đứa trẻ sử dụng một đồ vật (cây gậy, chẳng hạn) để thực hiện các hành động liên quan đến một đồ vật khác (như một con ngựa bập bênh), và do đó làm cho đối tượng đầu tiên trở thành đại diện cho đối tượng thứ hai. Tương tự như vậy, ông lập luận về việc vẽ biểu tượng được bắt đầu bằng động tác cầm bút. Chữ viết được sinh ra từ sự kết hợp giữa nét vẽ và ngôn ngữ (hai hệ thống ký hiệu cấp một) với ý tưởng rằng một dấu ghi trên giấy đại diện cho một ký hiệu. Từ đó Vygotsky dẫn đến lập luận về sự phát triển trí tuệ thông qua việc hợp lưu của hai dòng chảy độc lập: suy nghĩ và lời nói. Lúc đầu, ngôn từ biểu thị hoạt động bên ngoài và đi kèm với hành động; sau đó, ở giai đoạn sau, ngôn từ sẽ đi trước, dẫn dắt và chỉ đạo hành động. Nói một cách khác, một thao tác ban đầu chỉ biểu thị một hoạt động ở bên ngoài rồi nó được tái tạo lại và bắt đầu xảy ra ở bên trong tâm trí. Một quá trình “liên cá nhân” ( giữa các cá nhân với nhau) biến thành một quá trình nội tâm.
Lý thuyết về nguồn gốc văn hóa-xã hội của trí khôn của Vygotsky đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới, nó nhấn mạnh những đóng góp quan trọng mà xã hội đã tạo ra cho sự phát triển của mỗi cá nhân. Vygotsky cho rằng ảnh hưởng của các thể chế văn hóa trong lĩnh vực này quan trọng hơn rất nhiều so với những yếu tố di truyền như năng lực trí tuệ và tinh thần.
Ngoài ra, theo ông, việc học tập của con người phần lớn mang bản chất của một hoạt động xã hội. Cần lưu ý rằng lý thuyết về nguồn gốc văn hóa và xã hội của Vygotsky mang những đặc trưng của chủ nghĩa cấu trúc bởi nó khẳng định rằng trẻ em không chỉ là những người tiếp thu thụ động - từ các thông tin chúng tiếp nhận, chúng cũng sẽ tự xây dựng những nền tảng kiến thức và sơ đồ tư duy riêng của mình. Ông tin rằng học tập là yêu cầu mang tính phổ biến và cần thiết của mọi quá trình phát triển có tổ chức của mọi xã hội và cá nhân, và càng trở thành cần thiết hơn nữa đối với các hoạt động tâm lý của con người. Một xã hội học tập vì thế phải là nhu cầu đặt lên trước nhu cầu về một xã hội phát triển.
Vygotsky rất quan tâm đến vai trò của xã hội hóa đối với quá trình phát triển nhận thức. Khác với những người quan niệm một chiều rằng việc học tập là hệ quả của sự phát triển (hoặc ngược lại), Vigotsky tin rằng giữa hai quá trình này có một sự tác động qua lại biện chứng. Ông đã đưa ra khái niệm “Vùng tiệm cận phát triển”, một trong những khái niệm quan trọng và độc đáo trong lý thuyết của ông về bản chất xã hội của trí khôn. Theo Vygotsky, đó là “khoảng cách giữa trình độ phát triển hiện tại được quy định bởi việc đứa trẻ giải quyết vấn đề một cách độc lập, với mức độ phát triển tiềm năng như được quy định qua việc giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của người lớn hoặc có sự hợp tác của các bạn cùng trang lứa và giỏi hơn”.
Khái niệm “vùng tiệm cận phát triển” này cho phép chúng ta phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa hai hành vi “bắt chước” và “học theo” - loài linh trưởng có thể bắt chước một cách máy móc rất nhiều kỹ năng, nhưng không thể làm cho nó trở nên thông minh hơn , tức là độc lập giải quyết vấn đề ở mức độ cao hơn, lý do là chúng không có “vùng tiệm cận phát triển” như ở con người. Vì thế “vùng” này là một đặc trưng riêng biệt và là thiết yếu của loài người, “... quá trình học tập của con người liên quan tới một bản chất xã hội cụ thể, nó gắn với một quá trình trưởng thành của những đứa trẻ trong cuộc sống trí tuệ của những người xung quanh”.
Lý thuyết của Vygotsky còn nhấn mạnh vai trò của vui chơi trong học tập - cha mẹ và giáo viên có thể sử dụng những bối cảnh này để tìm ra đâu là “vùng phát triển tiệm cận” ở mỗi đứa trẻ. Vygotsky cũng rất coi trọng các tương tác ngang hàng (tương tác giữa các trẻ em đồng trang lứa), coi đó là một phương pháp rất hiệu quả để phát triển các kỹ năng và chiến lược. Đây là những kích thích từ những tác nhân có những vùng phát triển gần giống nhau. Vygotsky đề xuất phương pháp hợp tác học tập trong đó những học sinh kém hơn sẽ vươn lên nhờ vào sự giúp đỡ của các bạn giỏi hơn.
Vygotsky đã thực hiện các công trình nghiên cứu của mình vào những năm ngay sau cách mạng Tháng Mười. Ông lấy phương pháp biện chứng mác-xít làm nền tảng cho những nghiên cứu của mình. Những kết quả về nguồn gốc xã hội văn hóa của trí khôn của ông là sự phát triển trực tiếp từ luận đề của Friedrich Engels về vai trò của lao động với sự hình thành con người. Khi đột ngột qua đời ở tuổi 38, ông đã không kịp xuất bản các tác phẩm quan trọng nhất của mình. Nửa thế kỷ sau, các tác phẩm chính của ông mới lần lượt được xuất bản, và ngay lập tức ông được thừa nhận như một tác giả đi tiên phong, “Ở nhiều phương diện, Vigotsky đã đi trước rất xa thời đại của chúng ta” - J. Rivière - nhà tâm lý học người Pháp - từng nói. Còn triết gia Stephen Toulmin, trong bài viết có nhan đề “ Mozart của tâm lý học” đăng trên tờ New York Review ngày 28/9/1978 ví Vygotsky như “Mozart của tâm lý học”, và cho rằng nếu giới nghiên cứu tâm lý học Phương Tây, đặc biệt là Mỹ, được tiếp xúc sớm hơn với các công trình cuả Vygotsky, họ chắc chắn sẽ còn đi xa hơn nữa.