Ít ai biết thú y là một trong những ngành nghề cổ xưa nhất, sớm tới mức chúng ta không xác định được khởi nguồn của nó.
Ta không thể xác định được khi nào và ở đâu ngành thú y bắt đầu. Nhiều khả năng, một số hình thức thú y diễn ra nhanh chóng khi những con vật đầu tiên được thuần hóa, muộn nhất là bắt nguồn từ năm 12.000-10.000 TCN, thậm chí có ý kiến cho rằng nó còn xảy ra sớm hơn.
Tuy vậy, ta ghi nhận được sự phát triển sơ bộ của việc chữa bệnh cho động vật tại các nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Lưỡng Hà, Ai Cập và Ấn Độ, từ rất lâu trước khi nó tới Hy Lạp và Rome, sau đó phát triển ra khắp châu Âu.
Chữa mắt cho chó. Ảnh chụp năm 1969.
Trung Quốc
Các bằng chứng về chữa trị cho động vật được ghi lại sớm nhất ở Trung Quốc. Một trong những câu chuyện thần thoại phổ biến kể về thần Phục Hy và em gái kiêm vợ là Nữ Oa đã tạo ra loài người và sáng lập nền văn minh. Theo thần thoại (trong Sơn Hải Kinh từ năm 2600 TCN nhưng được cho là truyền miệng sớm hơn thế), Nữ Oa dùng bùn nặn ra từng con người, còn Phục Hy dạy con người cách bắt cá, săn bắn, viết chữ, trồng trọt và thu hoạch mùa màng, dự đoán tương lai bằng bói toán và cuối cùng là thuần hóa động vật hoang dã để không phải tốn công săn bắn nữa. Những bằng chứng rõ ràng về việc thuần hóa đã xuất hiện từ lâu vào thời điểm Làng Bán Pha phát triển mạnh trong khoảng năm 4500-3750 TCN.
Tác phẩm Sushruta Samhita - văn bản cổ nhất về phẫu thuật thẩm mỹ (Ấn Độ).
Sau đó, Phục Hy dạy con người cách chăm sóc động vật. Các ví dụ sớm nhất về ngành thú y là chăm sóc gia súc và ngựa. Bác sĩ được gọi là “thầy cúng ngựa”, dùng châm cứu để chữa cho ngựa què hay đau bụng vào khoảng năm 3000 TCN. Ngành thú y phát triển từ thời điểm đó và mở rộng chữa trị cho các con vật khác; họ sử dụng thảo dược, thần chú, cùng các cách khác trong quá trình này.
Bộ luật Hammurabi (thời Ai Cập cổ đại) được khắc tại Babylon, ngày nay gọi là Kahun Papyri.
Lưỡng Hà
Ở đây, bác sĩ thú y cũng xuất hiện vào năm 3000 TCN, cách chữa cũng liên quan tới thần thánh. Nữ thần sức khỏe và chữa lành Gula đã tạo nên nghệ thuật chữa bệnh với chồng Pabilasag, cùng các con trai là Damu và Ninazu. Trong số đó, Ninazu có ảnh hưởng lớn nhất, ông là thần cai quản thế giới bên kia trong thần thoại của người Sumer, gắn liền với rắn và chữa lành. Biểu tượng của thần là cây trượng có các con rắn quấn vào nhau, sau này nó được gắn với Hippocrates, và ngày nay trở thành biểu tượng của ngành y.
Sách chữa bệnh cho ngựa (Hy Lạp).
Hai kiểu bác sĩ chủ yếu ở Lưỡng Hà là Asu (bác sĩ chữa bệnh hay chấn thương dựa trên quan sát và chữa trị vật lý các triệu chứng) và Asipu (mà ngày nay ta gọi là “người chữa bệnh bằng đức tin”, dựa vào thần chú, cầu nguyện và thảo mộc), cả hai kiểu này đều có thể là bác sĩ thú y.
Bác sĩ thú y đầu tiên được biết đến là Urlugaledinna, ông phục vụ dưới thời Ur-Ningirsu (2121-2118 TCN), vua của Lagash. Theo văn bản, ông chữa chủ yếu cho động vật hơn là con người, nhưng không có thông tin chi tiết về ông phát triển biện pháp như nào. Điều này khá phổ biến trong văn bản của người Lưỡng Hà, bởi họ cho rằng đây là điều ai cũng biết. Bất kể những bác sĩ thú y đời đầu này đã làm gì, họ đã thiết lập các biện pháp đủ tốt để xác định bệnh ở động vật và cách điều trị vào thời điểm bộ luật Eshinna được viết khoảng năm 1930 TCN. Bộ luật này xác định bệnh dại, ảnh hưởng của nó, quy định mức phạt mà chủ con chó bị dại phải chịu khi nó cắn người. Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1754 TCN) công nhận bác sĩ thú y là một lớp bác sĩ y tế riêng biệt và ấn định mức phí mà họ được nhận; xác định rõ chăm sóc thú y là một nghề nghiệp đáng kính.
Ai Cập
Vào thời điểm Bộ luật Hammurabi được khắc tại Babylon, bác sĩ thú y ở Ai Cập từ lâu đã thuần thục và tạo ra công trình khoa học thú y, ngày nay gọi là Kahun Papyri. Có niên đại từ thời Trung Vương quốc Ai Cập (2040-1782 TCN), và đặc biệt dưới triều đại của Amenemhat III (1860 - 1814 TCN), Kahun Papyri gồm các văn bản về một loạt chủ đề khác nhau, từ lễ hội được tổ chức cho tới các vấn đề phụ khoa cùng phương pháp điều trị, đến biện pháp thú y và chẩn đoán bệnh tật.
Không ngạc nhiên khi khoa học thú y phát triển toàn diện ở Ai Cập cổ đại. Ngoài tôn kính mèo, cư dân cổ đại coi tất cả sự sống đều thiêng liêng. Người Ai Cập gần như hoàn toàn ăn chay và động vật được tôn vinh thông qua việc đồng nhất với các vị thần.
Xã hội nông nghiệp khiến người Ai Cập cổ sống gần gũi với các con vật. Điều này lại khiến con người dễ mắc các bệnh từ động vật, nhưng người Ai Cập đã sớm tiên phong trong việc chữa trị động vật. Trên thực tế, nhiều học giả cho rằng Ai Cập là một trong những nơi sớm nhất trên thế giới xuất hiện các biện pháp thú y, ít nhất từ thời Vương quốc Cổ (khoảng 2613-2181 TCN), nếu không muốn nói là sớm hơn.
Một căn bệnh phổ biến ở Ai Cập là nagana (hay ushau trong văn bản), lây lan do ruồi xê xê mang mầm bệnh cắn động vật rồi lây sang con người, gây ra “bệnh ngủ”, nếu không được điều trị sẽ dẫn tới tử vong. Cuốn y thư cổ Kahun Papyrus đặc biệt đề cập tới căn bệnh này, đưa ra phương thuốc điều trị, nhất là đề cập tới tầm quan trọng của việc rửa tay trước, trong và sau khi điều trị cho con vật nhiễm bệnh. Cuốn y thư này bàn chủ yếu về cách điều trị cho gia súc, nhưng thú cưng như chim, chó và cá cũng được nhắc tới.
Ấn Độ
Không rõ khoa học thú y Ai Cập có truyền đến Ấn Độ, hay nó phát triển độc lập tại đây, nhưng vào thời Vệ Đà (khoảng 1500-500 TCN), bác sĩ thú y đã là một nghề lâu đời và được kính trọng. Các tư tế tôn giáo, những người có trách nhiệm chăm sóc gia súc, là bác sĩ thú y đầu tiên. Một số bài thánh ca Vệ Đà chỉ ra giá trị y học của các loại thảo dược, và có khả năng những tư tế này cũng sử dụng kiến thức y tế để phòng ngừa gia súc không bệnh.
Bác sĩ Sushruta (khoảng TK 7 hoặc 6 TCN) được gọi là “Cha đẻ của y học Ấn Độ” và “Cha đẻ của phẫu thuật thẩm mỹ”. Ông đã phát triển các kỹ thuật chữa bệnh cho người cũng như động vật. Tác phẩm Sushruta Samhita của ông được coi là văn bản cổ nhất về phẫu thuật thẩm mỹ trên thế giới, một tác phẩm kinh điển trong Ayurvedic - hệ thống y học Hindu, và đây là cơ sở cho việc hành nghề bác sĩ thú y ở đây.
Động vật được chăm sóc y tế tốt ở Ấn Độ cổ đại. Bác sĩ chữa cho người cũng được đào tạo về động vật. Các luận thuyết y học của Ấn Độ như Charaka Samhita, Sushruta Samhita và Harita Samhita có các chương hay tài liệu tham khảo về chăm sóc động vật mắc bệnh cũng như khỏe mạnh. Tuy nhiên, có những bác sĩ chỉ chuyên về động vật hay chỉ một loại động vật; người vĩ đại nhất trong số họ là Shalihotra, bác sĩ thú y đầu tiên được biết đến trên thế giới và là cha đẻ của khoa học thú y Ấn Độ.
Shalihotra (khoảng TK 3 TCN) đã viết Shalihotra Samhita, bàn về khoa học thú y, dựa trên công trình trước đó của Sushruta về giải phẫu người, sinh lý học và các kỹ thuật phẫu thuật; chúng được sửa lại để chăm sóc động vật. Vào thời đại vua Ashoka (khoảng năm 268 - 232 TCN), bệnh viện thú y đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Ấn Độ với tầm nhìn cơ bản dựa trên công trình của Shalihotra.
Hy Lạp và La Mã
Cũng giống như các nền văn minh khác, người Hy Lạp phát triển một số hình thức thú y không lâu sau khi thuần hóa động vật. Nhưng một trong những cách điều trị toàn diện nhất tới từ Hippocrates, ông phát triển phương cách thực nghiệm để chẩn đoán và điều trị cho cả người lẫn con vật. Hippocrates là người Hy Lạp đầu tiên nhận định bệnh tật là do các yếu tố môi trường, chế độ ăn và lối sống, chứ không phải do thần linh trừng phạt hay tai tương do quỷ dữ hoặc linh hồn người chết không yên. Tuy nhiên, người đầu tiên trong lịch sử đưa ra nhận định như vậy là nhà bác học Imhotep (2667-2600 TCN), sau đó là Sushruta và Shalihotra ở Ấn Độ.
Hippocrates cho rằng chế độ ăn uống là một trong những khía cạnh quan trọng nhất để duy trì sức khỏe ở cả người lẫn động vật. Tuy tập trung vào sức khỏe con người, ông cũng mở rộng cho động vật. Vào năm 130 TCN, một người đàn ông tên Metrodorus ở Lamia nổi danh nhờ kỹ năng chữa bệnh cho động vật dựa trên công trình của Hippocrates. Ông có công trình nghiên cứu ngựa và cũng được kính trọng là bác sĩ phẫu thuật thú y.
Chắc chắn người La Mã đã áp dụng phương pháp y tế của người Hy Lạp, và người nổi tiếng nhất là Galen, ông ghi nhận sự tương đồng trong chức năng sinh lý giữa con người và động vật và chữa bệnh cho cả hai nhờ hiểu biết về giải phẫu học. Ông cho rằng thứ gì gây hại cho động vật thì cũng gây hại cho con người, thứ gì tăng cường sức khỏe cho con người thì nhiều khả năng cũng tác động tốt với động vật.
Tuy thế, công trình về động vật của Gale lại bị lu mờ trước tác giả Publius Flavius Vegetius Renatus người La Mã, người viết cuốn Digesta Artis Mulomedicinae. Tác phẩm này trở thành tiêu chuẩn tham chiếu với những ai hoạt động trong lĩnh vực này. Rõ ràng, Vegetius đã đọc Hippocrates vì nhấn mạnh rằng bệnh tật có nguồn gốc tự nhiên chứ không phải do thế lực siêu nhiên.
Thời Thiên chúa giáo
Vào thời kỳ này, các tri thức trước đây về khoa học thú y đã thất lạc. Giáo hội ngăn cấm việc truyền bá và khám nghiệm tử thi, phá hủy nhiều tài liệu về thú y. Trong thời gian này không có tài liệu mới được viết ra. Tác phẩm duy nhất là của người Arab ở Tây Ban Nha về bệnh ở ngựa.
Tình trạng thiếu quan tâm tới thú y bắt nguồn từ sự khẳng định của Giáo hội trung cổ là động vật không có linh hồn bất tử, do vậy chúng không đáng được chữa trị. Mãi tới cuối TK 12 và đầu TK 13, người châu Âu mới lần nữa chú ý tới sức khỏe động vật vì nó ảnh hưởng tới sức khỏe người. Tuy thế, họ chỉ chú trọng ngựa và gia súc. Chăm lo cho sức khỏe động vật vì chính nó phải rất lâu sau mới thành trọng tâm. Cho tới Thời kỳ Khai sáng (1715-1789), thú y mới bắt đầu được quan tâm nghiêm túc.
Học viện đào tạo thú y đầu tiên ở châu Âu do bác sĩ phẫu thuật thú y Claude Bourgelat (1712-1779) thành lập ở Pháp vào năm 1762, trước tình trạng gia súc chết hàng loạt do dịch bệnh. Các học trò của Bourgelat đã thực hiện những bước tiến dài ấn tượng trong việc nghiên cứu và điều trị. Điều này khiến vua Pháp Louis XV thành lập Trường Thú y Hoàng gia vào năm 1765, những trường khác mở sau đó ở các nước châu Âu trong suốt năm 1791 tới năm 1862. Tại Mỹ, ngôi trường đầu tiên là Học viện Thú y Philadelphia được thành lập năm 1852.
Người gần đây nhất được tôn vinh là “Cha đẻ của Thú y” là bác sĩ người Mỹ James Harlan Steele, vì đã nâng cao nhận thức của cộng đồng về chăm sóc động vật. |
Nguồn: worldhistory.org