Các mô hình gần đây và bằng chứng từ các vụ phong tỏa thành công cho thấy thay đổi hành vi có thể làm giảm sự lây lan của COVID-19 nếu hầu hết mọi người tuân thủ.

Trên khắp thế giới, các nhà dịch tễ học đang xây dựng các dự báo ngắn hạn và dài hạn như một cách để giảm thiểu sự lây lan và tác động của SARS-CoV-2. Mặc dù các dự báo có thể khác nhau, nhưng các nhà lập mô hình thống nhất về hai điều: COVID-19 sẽ còn "chung sống" với chúng ta lâu dài, và tương lai phụ thuộc vào rất nhiều điều bất định, chẳng hạn như con người có phát triển khả năng miễn dịch lâu dài với virus hay không, thời tiết ảnh hưởng như thế nào đến sự lây lan của virus, và - có lẽ quan trọng nhất - các lựa chọn của chính phủ và cá nhân.

Báo cáo của Trung tâm Phân tích Bệnh Truyền nhiễm Toàn cầu MRC tại Đại học Hoàng gia London cho thấy giá trị của sự thay đổi hành vi về khẩu trang, rửa tay và giãn cách xã hội trước đây đã bị đánh giá thấp.

Khẩu trang và rửa tay đã bị đánh giá thấp

Các bằng chứng ban đầu cho thấy những thay đổi về hành vi cá nhân, chẳng hạn như rửa tay và đeo khẩu trang, vẫn được duy trì sau khi nới lỏng phong tỏa, giúp ngăn chặn làn sóng lây nhiễm.

Trung tâm Phân tích Bệnh Truyền nhiễm Toàn cầu MRC tại Đại học Hoàng gia London vừa công bố một nghiên cứu cho thấy, trong số 53 quốc gia bắt đầu mở cửa, không xuất hiện sự gia tăng ca nhiễm lớn như dự đoán dựa trên dữ liệu trước đó.

Giá trị của hành vi đeo khẩu trang, rửa tay và giãn cách xã hội trước đây đã bị đánh giá thấp - theo Samir Bhatt, nhà dịch tễ học về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Hoàng gia London và là đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết.

Tại Đại học Anhembi Morumbi ở São Paulo, Brazil, nhà sinh vật học tính toán Osmar Pinto Neto và các đồng nghiệp đã chạy hơn 250.000 mô hình toán học về ba loại chiến lược giãn cách xã hội (không đổi, ngắt quãng hoặc giảm dần theo từng giai đoạn) cùng với các hành vi can thiệp như như đeo khẩu trang và rửa tay.

Nhóm nghiên cứu kết luận rằng nếu 50–65% người dân thận trọng ở nơi công cộng, thì việc giảm các biện pháp giãn cách xã hội sau mỗi 80 ngày có thể giúp ngăn số ca nhiễm không đạt đỉnh mới trong hai năm tới.

“Chúng ta cần phải thay đổi văn hóa tương tác. Nhìn chung, tin tốt là ngay cả khi không xét nghiệm hoặc không tiêm vaccine, các hành vi tốt có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể trong kiểm soát lây nhiễm," Neto nói.

Nhà mô hình hóa bệnh truyền nhiễm Jorge Velasco-Hernández tại Đại học Quốc gia Mexico ở Juriquilla và các đồng nghiệp cũng đã xem xét vai trò của phong tỏa và hành vi bảo vệ cá nhân. Họ phát hiện ra rằng, nếu 70% dân số Mexico cam kết thực hiện các biện pháp như rửa tay và đeo khẩu trang sau khi đợt phong tỏa tự nguyện (bắt đầu từ cuối tháng 3) của nước này kết thúc, thì dịch bệnh sẽ giảm sau khi đạt đỉnh vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6. Tuy nhiên sau khi chính phủ Mexico kết thúc các biện pháp phong tỏa vào ngày 1/6, số ca tử vong do COVID-19 hằng tuần vẫn giữ nguyên cho đến nay. Không rõ nguyên nhân là do không đủ 70% người dân không tuân thủ các biện pháp phòng ngừa, hay như nhóm của Velasco-Hernández suy đoán: hai ngày lễ lớn của nước này đã đóng vai trò là các sự kiện lây nhiễm diện rộng, tiếp tục gây ra tỷ lệ lây nhiễm cao.

Người xem phim ở Hàng Châu, Trung Quốc, tuân thủ các tiêu chuẩn mới về giãn cách và đeo mặt nạ.

Truy vết những người tiếp xúc gần với các trường hợp nhiễm mới

Ở những vùng mà COVID-19 dường như đang giảm, các nhà nghiên cứu nói rằng cách tiếp cận tốt nhất là giám sát cẩn thận bằng cách xét nghiệm, cô lập các trường hợp mới và truy vết các liên hệ của họ.

Một phân tích của Nhóm công tác COVID-19 ở Trung tâm Mô hình Toán học về Các bệnh Truyền nhiễm thuộc Trường Y học Nhiệt đới & Vệ sinh London (LSHTM) đã mô phỏng các đợt bùng phát mới có khả năng lây lan khác nhau, bắt đầu từ 5, 20 hoặc 40 trường hợp ban đầu. Nhóm nghiên cứu kết luận, để kiểm soát tránh bùng phát, việc truy tìm liên hệ phải nhanh chóng và rộng rãi - truy tìm đến 80% số liên lạc trong vòng vài ngày. Đồng tác giả Rosalind Eggo cho biết hiện nhóm đang đánh giá hiệu quả của việc theo dõi liên hệ kỹ thuật số và thời gian khả thi để giữ những người bị phơi nhiễm trong vòng cách ly. Phải có sự cân bằng giữa chiến lược mà người dân có thể chấp nhận và chiến lược ngăn chặn được các đợt bùng phát, Eggo nhấn mạnh.

Việc truy tìm 80% số người tiếp xúc gần như là bất khả ở các khu vực có hàng nghìn ca lây nhiễm mới mỗi tuần - và tệ hơn, ngay cả những kiểm đếm ca nhiễm chi tiết nhất cũng thường thiếu sót. Một nhóm nghiên cứu ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), Cambridge phân tích dữ liệu thử nghiệm COVID-19 từ 84 quốc gia cho thấy rằng các ca nhiễm toàn cầu cao hơn 12 lần và số ca tử vong cao gấp rưỡi so với báo cáo chính thức. “Có nhiều trường hợp mà số liệu không ghi nhận. Do đó, nguy cơ nhiễm cao hơn những gì mọi người thường nghĩ,” John Sterman, đồng tác giả của nghiên cứu và là giám đốc của MIT System Dynamics Group, cho biết.

Hiện tại, các nỗ lực giảm thiểu lây nhiễm như giãn cách xã hội, cần được tiếp tục thực hiện càng lâu càng tốt để ngăn chặn một đợt bùng phát lớn thứ hai, Bhatt nói. "Đến những tháng mùa đông, mọi việc sẽ lại trở nên nguy hiểm hơn một lần nữa."

(Còn tiếp)

Nguồn:

https://www.nature.com/articles/d41586-020-02278-5
https://ssrn.com/abstract=3635047
https://go.nature.com/31jkaws
https://khoahocphattrien.vn/thoi-su-quoc-te/so-nguoi-nhiem-covid19-thuc-te-co-the-con-lon-hon-nhieu/2020021204157605p882c919.htm