Việc “soi” các căn bệnh thời hiện đại dưới ánh sáng của khoa học tiến hóa giúp chữa bệnh hiệu quả hơn; tuy nhiên, cuộc đấu tranh đưa y học tiến hóa vào các trường đào tạo bác sỹ không hề dễ dàng.

Đầu tư y tế theo khoa học tiến hóa

Cách đây một thập kỷ, lần đầu đối mặt với tình huống một bệnh nhân tim mạch của mình tử vong, tiến sỹ y khoa Joon Yun - hiện là bác sỹ của Đại học Stanford (Mỹ), Giám đốc điều hành, Chủ tịch Quỹ Palo Alto Investor - bị giằng xé bởi rất nhiều suy nghĩ. Yun bắt đầu xem xét vai trò của tiến hóa đối với sức khỏe con người và cố soi chiếu ca bệnh thất bại của mình dưới ánh sáng của sinh học tiến hóa. Ông liên tưởng đến buổi bình minh của nhân loại khi bệnh tim chỉ là một phần nhỏ trong các nguyên nhân gây tử vong.

Tiến sỹ y khoa Joon Yun trong một cuộc nói chuyện về y học Darwin. Ảnh: Drjoonyun
Tiến sỹ y khoa Joon Yun trong một cuộc nói chuyện về y học Darwin. Ảnh: Drjoonyun

Thời tiền sử, lý do phổ biến nhất dẫn đến cái chết là bị một sinh vật ăn thịt tấn công. Cơ thể con người phản ứng với các nỗi đau đớn dạng này bằng cách đáp ứng lập tức: Máu hình thành các cục nghẽn và mạch máu co lại, làm chậm quá trình mất máu; phản ứng viêm được kích hoạt để chống lại các yếu tố truyền nhiễm. Các gene kiểm soát phản ứng chống chấn thương này có lẽ đã được ưu tiên trong quá trình tiến hóa và trở thành “thông số xuất xưởng” trong cơ thể người hiện đại.

Thời hiện đại, các sinh vật ăn thịt - nhân tố tiền sử có vai trò kích hoạt phản xạ chống chấn thương - đã gần như không còn. Ngược lại, những “đặc sản” của cuộc sống hiện đại như thuốc lá hoặc bệnh cao huyết áp lại có khả năng kích hoạt cơ chế này và cơ thể không thể quay lại trạng thái ban đầu. Quá trình viêm, đông nghẽn máu và co hẹp mạch máu trở thành thủ phạm gây xơ vữa động mạch. Nhiều phương pháp hiện đại điều trị bệnh tim như đặt stent thông động mạch hoặc nong mạch vành lại góp phần kích hoạt cơ chế chống đau đớn cổ xưa, tiếp tục gây ra các cơn nghẽn mạch tái phát.

Quỹ Palo Alto Investor do Yun điều hành đã đầu tư 350 triệu USD vào lĩnh vực y tế, phần nhiều là các thiết bị có ứng dụng phù hợp với khoa học tiến hóa. Chẳng hạn, quỹ đã bỏ qua các thiết bị stent thông mạch vành mà tập trung cho những quy trình không làm tăng nguy cơ gây các phản ứng chống chấn thương. Trong điều trị bệnh thận, quỹ cũng không sử dụng các hệ thống dẫn thuốc bằng tiêm tĩnh mạch mà tìm cách đưa thuốc trực tiếp đến thận.

“Việc điều trị không nên gây thêm stress cho cơ thể. Nhờ đó, chúng ta có thể đảo ngược quá trình thích ứng sai theo thuyết Darwin” - Yun chia sẻ triết lý của mình.

Cuộc vận động cho y học tiến hóa

Cuộc vận động đưa môn y học tiến hóa vào trường y bắt đầu từ những năm 1990. Một bài báo của chuyên gia tâm thần Randolph Nesse tại Đại học Michigan và tiến sỹ sinh học tiến hóa George Williams tại Đại học bang New York - Stony Brook (Mỹ) năm 1991 đặt cơ sở cho việc áp dụng thuyết tiến hóa vào các vấn đề của y học và lần đầu nêu thuật ngữ “y học Darwin”. Năm 2016, hai người xuất bản cuốn “ Tại sao chúng ta bị ốm: Y học Darwin - một môn khoa học mới”.

Tháng 2/2016, trong bài báo “Y học cần tiến hóa” trên tạp chí Science, 3 tác giả là Nesse - tiến sỹ sinh học tiến hóa, Stephen Stearns thuộc Đại học Yale và chuyên gia di truyền Gil Omenn kêu gọi đưa thêm câu hỏi về tiến hóa trong các bài kiểm tra lấy bằng nghề y.

Bài báo cũng kêu gọi đảm bảo kiến thức về tiến hóa cần có trong các cơ quan tài trợ nghiên cứu sinh - y và tích hợp môn tiến hóa vào tất cả các lớp học phù hợp kể từ cấp trung học. Họ cho rằng vai trò của tiến hóa đối với di truyền học và các hiểu biết về bệnh truyền nhiễm đã được biết đến khá rộng rãi, nhưng tiềm năng ứng dụng các kiến thức này trong y học vẫn không được công nhận.

Tuy nhiên, các trường y - ít nhất là tại Mỹ - vẫn chưa sẵn sàng cho một khóa học lý thuyết về tiến hóa. Tiến sỹ Stephen Lewis - giảng viên sinh học tại Đại học Chester (Anh) - nói: “Ấn tượng chúng tôi nhận được tại Anh là hệ thống giáo dục của Mỹ đang trải nghiệm một cảm giác chống lại thuyết tiến hóa rất mạnh mẽ, từ những nhóm tôn giáo nhất định”.

Một nghiên cứu gần đây cho thấy, trong 126 trường y tại Mỹ, chỉ 8 trường có một khóa học có chữ “tiến hóa”. Các bài báo y khoa tránh sử dụng từ “tiến hóa”. Từ này chỉ được sử dụng ở 3% số lượt - so với 68% ở các nhà sinh học tiến hóa. Tại một số quốc gia, việc tránh thuật ngữ “tiến hóa” có liên quan đến ảnh hưởng mạnh của các nhóm tôn giáo.

Thực trạng này chính là điều mà các chuyên gia y học tiến hóa đang cố thay đổi. “Nếu tiến hóa không phải là một phần trong giáo dục y khoa thì đó thật sự là một điều ngớ ngẩn” - Nesse nhấn mạnh. Theo ông, tiến hóa cung cấp một khung nhận thức rất rộng để sắp xếp và hiểu tất cả các dữ kiện thực tế và nguyên lý. Nó kết nối các nội dung giáo dục y khoa khác nhau, thay vì dạy hàng chục ngàn ca bệnh rời rạc.

Tuy chưa thành công rực rỡ, ý kiến của cộng đồng y học tiến hóa đã nhận được không ít sự ủng hộ. Tiến sỹ Julie Parsonnet - Phó khoa Giáo dục y tế, Đại học Stanford (Mỹ) - tin rằng sinh viên vẫn học về vai trò của tiến hóa trong y khoa ngay cả khi chưa có một khóa học nào về chủ đề này. “Không thể trở thành một bác sỹ giỏi mà không hiểu về quá trình tiến hóa” - TS Parsonnet nhận định. Lewis và Parsonnet thống nhất là chưa nhất thiết phải có một khóa học chuyên về y học tiến hóa nhưng theo Lewis, kiến thức về tiến hóa cần nằm trong các nguyên lý sinh học cơ bản là nền tảng của y học.