Trước khi có những giải pháp hữu hiệu để tái chế chất thải xây dựng và đem lại cho nó một chỗ đứng trên thị trường vật liệu xây dựng, Việt Nam cần có những quy định cơ bản về phế thải xây dựng.

Cũng như nhiều thành phố khác ở Việt Nam, Hà Nội luôn có những công trình được thi công với nhiều quy mô khác nhau tại nhiều ngóc ngách trong thành phố, dẫn đến phát sinh hàng ngàn tấn phế thải xây dựng mỗi ngày.

Trước tình trạng này, đã bao giờ bạn thắc mắc rằng những đống gạch đá, đất, bê tông phế thải đó sẽ đi về đâu? Đây là vấn đề mà ThS. Hoàng Ngọc Hân ở Viện Nghiên cứu môi trường quốc gia (Nhật Bản) muốn tìm hiểu. Thông qua dự án “Thiết lập hệ thống quản lý phế thải xây dựng hiệu quả nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường và tăng cường khả năng chế tạo các loại vật liệu mới từ phế thải xây dựng tái chế ở Việt Nam” (2018-2023) thuộc Chương trình hợp tác nghiên cứu KH&CN phát triển bền vững (SATREPS) giữa Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Tổ chức KH&CN Nhật Bản (JST) với cơ quan đầu mối tại Việt Nam là trường Đại học Xây dựng, chị và đồng nghiệp đã có cơ hội khám phá bức tranh toàn cảnh về chất thải xây dựng ở Hà Nội - yếu tố quan trọng để xây dựng các chính sách xử lý hiệu quả.

Tái chế chất thải rắn - Giải pháp hữu hiệu cho vấn nạn đổ trộm phế thải xây dựng. Trong ảnh: Máy nghiền công suất lớn nhưng nhỏ gọn và hạn chế tối đa bụi, tiếng ồn.
Ảnh: baotainguyenmoitruong.vn

Quy mô nhỏ nhưng chất thải lớn

Đặc tính của chất thải xây dựng phụ thuộc vào kiến trúc. “Ở Việt Nam, kết cấu của các tòa nhà ở ba khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam rất khác nhau do đặc điểm khí hậu ba miền khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào Hà Nội”, ThS. Hoàng Ngọc Hân cho biết.

Họ đã khảo sát thực tế 15 công trình xây dựng và công trình phá dỡ trên địa bàn thành phố, bao gồm cả quy mô nhỏ và quy mô lớn. Những dữ liệu chi tiết đầu tiên về chất thải xây dựng ở Hà Nội đã hé lộ: các loại chất thải xây dựng phổ biến nhất là đất, bê tông, gạch, kim loại, giấy bìa, nhựa, gỗ,... Trong đó, loại chất thải phát sinh nhiều nhất từ các công trình xây dựng là đất đào, còn đối với công trình phá dỡ là bê tông và gạch. Tỉ lệ này cũng phù hợp với đặc điểm nhà ở khu vực miền Bắc - chủ yếu là nhà kiên cố (chiếm 92% vào năm 2018, cao hơn hẳn khu vực miền Trung có 67% và miền Nam là 21%). Tương tự hiện trạng trên thế giới, tỉ lệ phát sinh chất thải ở công trình xây dựng và công trình phá dỡ ở Hà Nội có xu hướng ngược nhau: công trình phá dỡ quy mô càng nhỏ thì tạo ra lượng chất thải càng lớn (quy mô nhỏ là 610 kg/m2, quy mô lớn là 318 kg/m2), trong khi công trình xây dựng càng lớn thì lượng chất thải tạo ra càng lớn (quy mô nhỏ là 79,3 kg/m2; quy mô lớn là 1030 kg/m2). Kết quả này càng khiến người ta càng lo ngại bởi phần lớn các công trình phá dỡ ở Hà Nội hiện nay là những công trình quy mô nhỏ, thường bị phá dỡ để xây dựng các công trình lớn hơn.

Tỉ lệ tái chế thấp cùng “điểm dừng cuối” khó xác định của phế thải từ các công trình này có thể khiến chúng ta càng thêm lo lắng. Theo thống kê của nhóm nghiên cứu, tổng tỉ lệ tái chế của tất cả các loại chất thải xây dựng, bao gồm sắt, nhựa để bán phế liệu, đất dùng để đổ san nền, gạch, bê tông,... chỉ khoảng dưới 10% nhưng những loại chất thải chiếm tỉ lệ lớn nhất như đất, bê tông, gạch,... lại có tỉ lệ tái chế thấp nhất. Như vậy, khoảng 90% chất thải xây dựng ở Hà Nội không được tái sử dụng, “tỉ lệ này thậm chí có thể đáng báo động hơn ở vùng nông thôn hoặc những tỉnh thành quản lý chất thải xây dựng ít chặt chẽ hơn”, nhóm nghiên cứu nhận xét.

Dù 61% lượng chất thải được xử lý tại các bãi chôn lấp song nhìn chung, hầu hết những người trả lời khảo sát đều không muốn cung cấp thông tin chính xác về “đường đi” của chất thải xây dựng. Điều này dẫn đến tỉ lệ 22% chất thải xây dựng không xác định được điểm về cuối cùng, và gần 7% đi về các bãi thải “không chính thức”.

Yếu tố quan trọng trước khi có giải pháp tái chế

Việc đổ bỏ các loại chất thải xây dựng, dù đúng quy định, không chỉ gây áp lực lên các bãi chôn lấp vốn đã quá tải mà còn lãng phí không ít nguồn tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt. Nghiên cứu của ThS Hoàng Ngọc Hân và cộng sự nêu, mặc dù đất là loại chất thải xây dựng ít được tái sử dụng nhất nhưng trong thực tế gần đây, hàng loạt dự án như cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây (từ Bình Thuận đến Đồng Nai) hay cao tốc Cam Lộ - La Sơn đoạn qua Thừa Thiên Huế đang có nguy cơ chậm tiến độ vì thiếu đất san lấp.

Việt Nam đã bắt đầu nghĩ đến những giải pháp tái chế và đề ra mục tiêu đến năm 2025, 60% chất thải rắn xây dựng phát sinh từ các đô thị của Việt Nam sẽ được tái chế, theo Chiến lược về quản lý chất thải rắn quốc gia năm 2018. Thị trường dành cho sản phẩm tái chế từ chất thải xây dựng có vẻ rất hứa hẹn bởi bên cạnh nguồn cung dồi dào là lượng chất thải phát sinh lớn, nhu cầu về cốt liệu bê tông tái chế ở Hà Nội hiện nay thậm chí còn cao hơn nguồn bê tông thải.

Tuy nhiên không dễ để tạo dựng một thị trường chưa có tiền lệ này. Một trong những nguyên nhân chính là rác thải xây dựng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là rác thải lẫn, không được phân loại. Cũng như các giải pháp xử lý chất thải nói chung, mỗi công nghệ tái chế chất thải xây dựng sẽ phù hợp với từng loại chất thải khác nhau. Nếu tỉ lệ chất thải lẫn lộn cao như hiện nay - khoảng hơn 80% thì sẽ rất khó áp dụng các biện pháp tái chế, theo ThS. Hoàng Ngọc Hân.

Làm thế nào để phân loại chất thải xây dựng là một vấn đề không đơn giản vì khác với rác thải sinh hoạt có thể phân loại tại nguồn, chất thải xây dựng thường phát sinh với tỉ lệ rất lớn, gồm đất, bê tông, gạch,... nên “chúng ta không thể ngồi phân loại tại công trình, sẽ mất rất nhiều thời gian và diện tích”, ThS. Hoàng Ngọc Hân nói. Tuy nhiên, thông qua việc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước như Nhật Bản, nhóm nghiên cứu đã đề xuất áp dụng phương pháp phá dỡ chọn lọc để giảm thiểu lượng rác trộn lẫn. Với công nghệ này, “đơn vị phá dỡ sẽ phá dỡ theo từng bước, mỗi phần rác thải tạo ra sẽ được phân loại ngay tại nguồn, giải quyết vấn đề chất lượng đầu vào của nhà máy tái chế”.

Một yếu tố quan trọng để phát triển thị trường tái chế nữa là cần có các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho sản phẩm tái chế từ chất thải xây dựng. Dù đã được nhắc đến từ lâu song hiện nay, Việt Nam chưa có bất kì tiêu chuẩn hay quy chuẩn nào về các sản phẩm này. Đây cũng là một trong những lo ngại mà các công ty trong lĩnh vực xây dựng bày tỏ với nhóm nghiên cứu, “nếu không có tiêu chuẩn chất lượng thì không ai sẵn lòng dùng sản phẩm đấy cả, nên họ vẫn còn dè dặt”, chị cho biết.

Việc giải quyết những vấn đề trên có lẽ không chỉ trong “ngày một ngày hai”, bản thân các quốc gia phát triển như Nhật Bản cũng từng trải qua thời kì đổ rác thải xây dựng bừa bãi. Tuy nhiên, Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình này nếu có sự phối hợp của các bên - nhà quản lý, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và người dân: từ việc “lựa chọn công nghệ xử lý như thế nào, có được đón nhận hay không, nếu công nghệ đấy không khả thi với nhà đầu tư thì chính phủ làm như thế nào, nên có mô hình kinh doanh như thế nào để hỗ trợ nhà đầu tư cũng như khuyến khích hoạt động tái chế. Đấy sẽ là nỗ lực chung của rất nhiều bên thì mới thực hiện được”, ThS. Hoàng Ngọc Hân nhận định.

Ở Việt Nam hiện nay chưa có số liệu thống kê đầy đủ chính thức về lượng phế thải xây dựng phát sinh và tỉ lệ xử lý trong thực tế trong khi một số nghiên cứu về chất thải xây dựng ở Việt Nam hiện mới tập trung riêng vào việc xử lý một số loại chất thải xây dựng (chẳng hạn như cốt liệu bê tông tái chế) hoặc ước tính tỉ lệ phát sinh chất thải xây dựng dựa trên tổng lượng chất thải rắn nói chung. Điều này ảnh hưởng đến độ thống kê chính xác bởi tốc độ tăng trưởng của hai loại chất thải này có thể khác nhau.