Công trình “Paul Doumer, Toàn quyền Đông Dương (1897-1902): bàn đạp thuộc địa” của TS Amaury Lorin lật lại khá nhiều tư liệu, thư khố để có thể, như tác giả bộc bạch, dựng lại giai đoạn cầm quyền của Paul Doumer không chỉ ở chính quốc mà còn ở Đông Dương, không chỉ ở khía cạnh chính trị mà còn về mặt hệ tư tưởng.
Cá tính và mưu tính
Đông Dương trước 1897 rơi vào hai khó khăn lớn. Thứ nhất là tình hình tài chính quá thảm hại. Và thứ hai, những cuộc phản kháng chống thực dân của người An Nam chưa hoàn toàn bị dập tắt, nhất là vẫn còn đó một Đề Thám làm kinh động cả vùng Yên Thế. Không phải là một viên chức, cũng không hề được đào tạo ở Trường Thuộc địa hay Trường Luật, nhưng Paul Doumer, 39 tuổi, đã được lựa chọn để thay thế vị toàn quyền tiền nhiệm. Ngày 17/1/1897, Paul Doumer rời bến cảng Marseille, cùng vợ và hai con gái 16 và 14 tuổi, để lại Pháp năm cậu con trai. Gần một tháng sau, ông đặt chân lên Sài Gòn, “trẻ trung, nhanh nhẹn, ánh nhìn tinh nhanh, cử chỉ vồn vã, lời nói nhã nhặn, ngay lập tức dành được cảm tình một cách tự nhiên” như bình luận của sử gia Charles Fourniau được cuốn sách trích dẫn. Chưa ai biết cá tính, mưu tính nào đang ấp ủ trong con người này.
Đặt mục tiêu vực dậy tài chính Đông Dương lên hàng đầu, Paul Doumer lập tức tạo nên sự xáo trộn lớn lao trong đời sống vốn khá bình lặng của thuộc địa bằng hàng loạt các sắc lệnh liên quan đến điều hành hệ thống thuế khóa. Các loại thuế được mở rộng và tăng lên, từ thuế thân, thuế đất đai, cho đến các thuế phí đăng kí chứng chỉ quan chức, phí diêm, muối, rượu cồn, thuốc lá, thuốc phiện, gỗ củi, nhà tranh, đò sông,..., tóm lại, giống như “một trận mưa đá thực sự” giáng xuống thuộc địa. Trong đó, thuế thân và thuế đất đai được trưng thu tối đa đã khiến dân tình An Nam bấy giờ lâm vào khốn đốn, và, tất yếu, là khối thuốc nổ ngấm ngầm nhắm vào vị Toàn quyền khét tiếng quyết đoán.
Đánh thuế, cú hích đầu tiên để tạo đà cho nền kinh tế phát triển này, không phải không đem lại cho chính quyền Paul Doumer những thay đổi tích cực, cả về cung cách làm việc hành chính lẫn ngân sách. Bắt đầu từ năm 1899, niên khóa tài chính Đông Dương dư hơn ba triệu đồng bạc; năm 1900 và 1901 lần lượt là 2,5 triệu; còn sau 5 năm, Đông Dương lần đầu tiên trở thành thuộc địa tạo ra lợi nhuận. Khối ngân sách rộng rãi và gói vay trị giá hai trăm triệu franc (1898) từ mẫu quốc đã trực tiếp giúp Paul Doumer thực thi hóa công cuộc kiến thiết vật chất, cơ sở hạ tầng thuộc địa. Đông Dương nhanh chóng thay da đổi thịt, không chỉ chiếm thiện cảm của dư luận mà còn đem lại niềm hân hoan nhất định đối với chính giới Pháp, giúp họ quên đi những kí ức đau buồn sau thất bại của họ trong chiến tranh Pháp – Phổ (1870).
Từng xuất thân là Bộ trưởng Bộ Tài chính (1895-1896), có nhiều mối liên hệ với giới buôn bán, đặc biệt là ngành thép, Paul Doumer đã biến giai đoạn cầm quyền của mình ở Đông Dương thành “kỷ nguyên của sắt thép và của những cây cầu”. Dễ thấy xu hướng lược giản sự nghiệp của Paul Doumer tại Đông Dương thường gắn với thói quen liệt kê các công trình xây dựng, kiến trúc mà ngày nay vẫn tồn tại ở Hà Nội, Sài Gòn.
Nhưng A. Lorin còn cho thấy Paul Doumer phức tạp và hấp dẫn hơn trong nhiều khía cạnh khác. Chẳng hạn, Paul Doumer có “một sự pha trộn kín đáo” giữa những hoài bão triết học-chính trị theo tư tưởng Cộng hòa và Thuyết Tam Điểm. Tư tưởng của Hội Tam Điểm, vốn được coi như “Trường dòng của nền Cộng hòa”, thể hiện qua các khái niệm niệm như “tiến bộ”, “lòng bác ái”, “đoàn kết con người”, đã đóng một vai trò nhất định trong nhãn quan chính trị của Paul Doumer và từ đó, ông tìm cách truyền bá những lý tưởng này trong môi trường thuộc địa. Vì thế, ở Bắc kỳ, có những hội “Huynh đệ” hay “Hội quán” đã kết nạp thêm một vài “anh em người An Nam” và theo A. Lorin, nó có liên hệ mật thiết với tình cảm cá nhân dù ưu ái hay không của những vị Toàn quyền nối tiếp nhau.
Paul Doumer cũng phải lờ đi vấn nạn bộ máy hành chính thuộc địa cồng kềnh, quan liêu trong các báo cáo gửi về Paris của mình. Mặc dù từng cho rằng Đông Dương “không thiếu viên chức”, “cần phải tinh giản số lượng thay vì tuyển thêm” nhưng rút cuộc, Paul Doumer đã thiết lập bộ máy viên chức quá khổ và tốn kém. Khác với hình ảnh vị Toàn quyền cật lực làm việc đến kiệt sức, giới viên chức địa phương được mô tả là nhiều thì giờ nhàn tản, ngồi lê đôi mách nên không khí quan liêu nhức nhối ấy, như sử gia Pierre Brocheux nhận định và được cuốn sách trích dẫn, là “con đỉa hút máu của đế chế thuộc địa Pháp”. Một Paul Doumer đa mưu lắm kế đã tự mình chịu đựng sức ỳ từ bộ máy hành chính vốn chỉ cố gắng giữ cho họ được an toàn nơi xứ nhiệt đới nhiều dịch bệnh và bạo loạn.
Hào quang thuộc địa
Nhiệm kì 5 năm của Paul Doumer đặc biệt bận rộn khi ông là “nhà kiến thiết thực thụ” của nhiều dự án, kế hoạch lớn, có ý nghĩa lâu dài: đường sắt xuyên Đông Dương, cầu Long Biên, Trường Đại học Y Dược Hà Nội, Viện Pasteur Nha Trang, Khu nghỉ dưỡng Đà Lạt, Viện Viễn Đông Bác Cổ... Theo tác giả A. Lorin, Paul Doumer “đã truyền vào mảnh đất này một cá tính riêng”. Nhưng dẫu vậy, hào quang và di sản thuộc địa xứ Đông Dương dưới bàn tay Paul Doumer cũng gặp phải những dèm pha, điều tiếng bên cạnh sự tán dương, ngưỡng mộ.
Với Paul Doumer, lý tưởng của nền Đệ tam Cộng hòa hẳn đã thúc đẩy ông gây dựng và hỗ trợ các hoạt động khoa học và văn hóa khá bài bản. Nhờ Paul Doumer mà Đông Dương bớt đi những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại về vùng đất xa xôi, kì bí, để dần trở thành đối tượng nghiên cứu thực sự của nhiều học giả, của ngành khoa học nhân văn trên thế giới. Nhìn ở đóng góp này, theo tôi, Paul Doumer xứng đáng với lời lẽ của chính ông vào năm 1931 khi viết thư cho Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ: “Lợi ích mà chúng ta đã tạo ra được bằng khoa học có những gốc rễ sâu hơn so với những lợi ích từ mọi nguồn khác”.
Nhưng, “sự hăng tiết của Toàn quyền Đông Dương - A. Lorin bình luận, cuối cùng khiến Paris khó chịu dù không làm họ phẫn nộ”. Sự táo tợn trong các quyết định có tính chất đơn phương, bất chấp các qui tắc, lề thói chính trị của Paul Doumer càng làm ông có nhiều cựu thù. Lí giải của A. Lorin mà tôi nghĩ có thể chấp nhận được, ấy là Paul Doumer không hề muốn bỏ qua bất kì cơ hội nào để “đẽo gọt hình ảnh của riêng mình tại Đông Dương”. Một hình ảnh quá lớn và như thế, trở nên cớm bóng với những người kế nhiệm như Paul Beau (1902-1908), Anthony Klobukowski (1908-1911) và Albert Sarraut (1911-1914), những người mà, theo Charles Fourniau, chỉ tiếp tục hoàn thiện hoặc điều chỉnh phần nào bộ máy đã được Paul Doumer tạo lập chứ “không hề thay đổi đường hướng và cấu trúc cơ bản”. Trong khi đó, tại nước Pháp, Paul Doumer đủ khéo léo để sử dụng hào quang thuộc địa làm bàn đạp vươn tới vị trí cao nhất trên chính trường.