Ba thập niên trước đây, các trường đại học và viện nghiên cứu ở Trung Quốc đã thực thi chính sách khuyến khích công bố bài báo quốc tế cho các nhà nghiên cứu khoa học bằng cách thưởng tiền mặt cho các bài báo được xuất bản trong các tạp chí ISI.
Chính sách khuyến khích đó đã làm cho Trung Quốc trở thành nước sản xuất nhiều bài báo nghiên cứu hơn bất kỳ quốc gia nào khác, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đến nay Bộ KH&CN Trung Quốc vừa phải điều chỉnh chính sách, ban hành chỉ thị để tránh làm cho KH&CN phát triển “trọng số lượng” lệch lạc. Để tìm hiểu, tham khảo xu hướng điều chỉnh mới này, chúng tôi xin giới thiệu chính sách của Bộ KH&CN Trung Quốc về “Một số biện pháp nhằm loại bỏ định hướng xấu của `Chỉ tính bài báo’ trong đánh giá KH&CN”.
Để thực hiện các yêu cầu của Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Văn phòng Quốc vụ viện về các ý kiến nhằm thúc đẩy tinh thần khoa học và tăng cường xây dựng phong cách làm việc và học tập, hoàn thiện hệ thống đánh giá KH&CN, khắc phục tình trạng đánh giá KH&CN quá chú trọng đến số lượng bài báo, chỉ số ảnh hưởng mà bỏ qua chất lượng, đóng góp và tác động của nghiên cứu, Bộ KH&CN và Bộ Tài chính đề ra một số biện pháp sau.
1. Tăng cường hướng dẫn đánh giá phân loại chú ý đến chất lượng, sự đóng góp và tác động của các thành tựu mang tính bước ngoặt.
Đối với các hoạt động KH&CN dạng nghiên cứu cơ bản, tập trung vào đánh giá chất lượng, sự đóng góp và tác động của những phát hiện mang tính bước ngoặt như khám phá mới, quan điểm mới, nguyên tắc mới và cơ chế mới. Trong đó, số các công trình trong các tạp chí KH&CN trong nước về nguyên tắc không dưới 1/3 tổng số. Tăng cường đánh giá ngang hàng các công trình xuất sắc, kết hợp đánh giá định lượng và định tính và tập trung vào giá trị học thuật và tác động của chúng, mức độ phù hợp của chúng đối với đánh giá KH&CN hiện tại và sự đóng góp của các tác giả có liên quan. Không coi số lượng và chỉ số ảnh hưởng của các công bố như là chỉ số đánh giá định lượng.
Đối với các hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, chú ý đến việc đánh giá các công nghệ mới, quy trình mới, sản phẩm mới, vật liệu mới, thiết bị mới và các thành phần chính, thiết bị/hệ thống thí nghiệm, giải pháp ứng dụng, chương trình chẩn đoán và điều trị mới, hướng dẫn/tiêu chuẩn lâm sàng, dữ liệu khoa học, báo cáo KH&CN, phần mềm và các thành tựu mang tính bước ngoặt khác về chất lượng, sự đóng góp và tác động, không lấy công bố làm chỉ số đánh giá và làm cơ sở đánh giá chính.
Tăng giá trị và trọng số đánh giá cho các kết quả chất lượng cao. Đối với những thành tựu mang tính bước ngoặt có tác động học thuật nhất định hoặc đạt được hiệu quả ứng dụng thực tế, chúng có thể được sử dụng làm kết quả chất lượng cao, có thể tăng trọng số lên 10%. Đối với những người có tác động học thuật quan trọng và có tác dụng thúc đẩy ĐMST KH&CN trong các lĩnh vực liên quan, có thể tăng lên 30%. Đối với những kết quả đã được áp dụng vào thực tế và đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia, trọng số có thể tăng lên 50%. Trọng số cụ thể được xác định bởi đơn vị (viện) quản lý tổ chức đánh giá KH&CN có liên quan tùy theo tình hình thực tế.
Khuyến khích xuất bản các bài báo chất lượng cao, bao gồm các bài báo được xuất bản trên các tạp chí KH&CN trong nước có ảnh hưởng quốc tế, các tạp chí khoa học kỹ thuật quan trọng hoặc tạp chí hàng đầu quốc tế được công nhận trong lĩnh vực, và các báo cáo tại các hội nghị học thuật hàng đầu trong và ngoài nước (sau đây gọi là “ba dạng công bố chất lượng cao”). Phạm vi cụ thể của các tạp chí và hội nghị khoa học nêu trên được Hội đồng học thuật của đơn vị xác định dựa trên nguyên tắc ít và tinh túy. Trong số đó, các tạp chí khoa học kỹ thuật trong nước có ảnh hưởng quốc tế được xác định bằng cách tham khảo danh sách các tạp chí được chọn của Kế hoạch Hành động xây dựng các tạp chí khoa học kỹ thuật xuất sắc của Trung Quốc; Các tạp chí KH&CN quan trọng và các hội nghị học thuật hàng đầu trong và ngoài nước được lựa chọn bởi Hội đồng học thuật của đơn vị kết hợp với các ngành học hoặc lĩnh vực kỹ thuật.
2. Đánh giá các dự án KH&CN Quốc gia cần nêu bật được chất lượng ĐMST và hiệu suất toàn diện. Đánh giá dự án cần tập trung vào tính khả thi và bản chất tiên tiến của dự án, còn đánh giá hiệu quả toàn diện cần tập trung vào chất lượng và tác động của các kết quả mang tính bước ngoặt đã thỏa thuận trong hợp đồng dự án.
Không sử dụng công bố làm cơ sở đánh giá và chỉ số đánh giá cho hướng dẫn ứng dụng, đánh giá dự án, đánh giá hiệu suất toàn diện, kiểm tra điểm ngẫu nhiên, v.v. đối với các dự án nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ
Đối với các dự án nghiên cứu cơ bản, tập hợp các công trình đại diện sẽ được thông qua để đánh giá báo cáo (về nguyên tắc không vượt quá 5 công trình đại diện). Trong các cam kết, ủy nhiệm, báo cáo hằng năm và các tài liệu khác, cần tập trung vào báo cáo vai trò hỗ trợ và mức độ phù hợp của các công trình đại diện đối với các dự án (chủ đề) liên quan. Trong đánh giá dự án, đánh giá hiệu suất toàn diện, kiểm tra điểm ngẫu nhiên, v.v., cần tập trung vào đánh giá chất lượng và ứng dụng của các công trình đại diện.
3. Đánh giá các cơ sở đổi mới sáng tạo KH&CN Quốc gia cần nêu bật các khả năng của dịch vụ hỗ trợ. Cần chú ý đến việc đánh giá vai trò và hiệu quả của các cơ sở đổi mới KH&CN đối với đáp ứng các nhu cầu chính của đất nước và sự phát triển kinh tế và xã hội.
Cần tập trung vào đánh giá vai trò hỗ trợ cho các nhu cầu chính của quốc gia và xây dựng kỹ thuật và vai trò hỗ trợ cho các nhu cầu lâm sàng và công nghiệp hóa chủ yếu đối với các cơ sở đổi mới kỹ thuật và chuyển giao thành tựu, như Trung tâm ĐMST Công nghệ Quốc gia và Trung tâm Nghiên cứu Y khoa Lâm sàng Quốc gia. Không sử dụng công bố làm cơ sở đánh giá chính và chỉ số đánh giá.
Cần tập trung đánh giá chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ nước ngoài đối với các cơ sở hỗ trợ và bảo đảm điều kiện cơ bản như Nền tảng dịch vụ chia sẻ tài nguyên KH&CN Quốc gia và Trạm Nghiên cứu và Quan sát khoa học Quốc gia. Không sử dụng công bố làm cơ sở đánh giá chính và chỉ số đánh giá.
Đối với các cơ sở nghiên cứu khoa học và kỹ thuật như Phòng Thí nghiệm Quốc gia và Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Quốc gia, cần tập trung đánh giá khả năng ĐMST độc đáo, khả năng cạnh tranh đột phá khoa học quốc tế và khả năng đáp ứng nhu cầu lớn của quốc gia. Tập hợp các công trình đại diện được thông qua để đánh giá các công bố, và số lượng công trình đại diện cho mỗi chu kỳ đánh giá về nguyên tắc không vượt quá 20.
4. Đánh giá hiệu suất của các tổ chức nghiên cứu khoa học trung ương cần tập trung vào việc đánh giá hiệu suất trong việc hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu quốc gia, cũng như giá trị học thuật và tác động của kết quả.
Đối với các tổ chức nghiên cứu khoa học và sáng chế - thử nghiệm trong lĩnh vực công nghệ, cần tập trung vào đánh giá hiệu suất trong việc chuyển đổi kết quả và hỗ trợ phát triển công nghiệp, và không sử dụng công bố làm cơ sở đánh giá chính và chỉ số đánh giá.
Đối với các tổ chức nghiên cứu phúc lợi xã hội, cần tập trung vào đánh giá hiệu quả của kết quả nghiên cứu phúc lợi công cộng và thực hiện các trách nhiệm xã hội, không sử dụng công bố làm cơ sở đánh giá và chỉ số đánh giá chính.
Đối với các viện nghiên cứu cơ bản, cần tập trung vào đánh giá trình độ của các kết quả đại diện, tác động học thuật quốc tế và đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội và các nhu cầu lớn của đất nước. Tập hợp các công trình đại diện được thông qua để đánh giá các công bố và số lượng công trình đại diện cho mỗi chu kỳ đánh giá về nguyên tắc không vượt quá 40.
5. Đánh giá giải thưởng KH&CN quốc gia về chất lượng và đóng góp của các kết quả nổi bật. Cần chú ý đến việc xem xét chất lượng, hiệu quả và tác động của các thành tựu KH&CN có liên quan, cũng như sự đóng góp của các cá nhân có liên quan.
Đối với Giải thưởng Khoa học Tự nhiên, cần tập trung vào đánh giá tính độc đáo, sự công nhận và giá trị khoa học của kết quả. Tập hợp các công trình đại diện được thông qua để đánh giá các công bố và số lượng công trình đại diện về nguyên tắc không được vượt quá 5.
Đối với Giải thưởng phát minh công nghệ và Giải thưởng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cần chú ý đến việc đánh giá sự ĐMST, tính tiên tiến, giá trị ứng dụng và lợi ích kinh tế xã hội của kết quả, bài báo không được sử dụng làm cơ sở đánh giá chính.
Các giải thưởng KH&CN cao nhất và giải thưởng hợp tác quốc tế cũng phải thực hiện theo các yêu cầu đánh giá phân loại.
6. Lựa chọn kế hoạch phát huy tài năng sáng tạo cần làm nổi bật tinh thần khoa học, khả năng và hiệu suất. Chú ý đến việc đánh giá đạo đức học thuật và mức độ hoạt động và ảnh hưởng trong lĩnh vực, tính độc đáo của kết quả nghiên cứu và sáng chế, ưu thế của việc chuyển đổi kết quả và sự đáp ứng của các dịch vụ KH&CN.
Đối với ĐMST KH&CN và tài năng kinh doanh, cần tập trung vào đánh giá tài năng kinh doanh lập doanh nghiệp để tạo việc làm, hàm lượng công nghệ công nghiệp và lợi ích kinh tế và xã hội, v.v.
Đối với các nhà lãnh đạo trẻ và trung niên về đổi mới KH&CN, cần tập trung vào đánh giá sự ĐMST và tác động học thuật của các thành tựu cốt lõi. Tập hợp các công trình đại diện được thông qua để đánh giá các công bố, và số lượng công trình đại diện về nguyên tắc không được vượt quá 5.
Đối với các nhóm ĐMST trong các lĩnh vực chủ chốt, cần tập trung vào đánh giá khả năng hợp tác và ĐMST của nhóm, cũng như tính phối hợp tổ chức và khả năng lãnh đạo của trưởng nhóm. Tập hợp các công trình đại diện được thông qua để đánh giá các công bố, và số lượng công trình đại diện về nguyên tắc không vượt quá 10.
Các kế hoạch tài năng KH&CN khác cũng sẽ thực hiện các yêu cầu để đánh giá phân loại.
7. Xây dựng và phát triển các Tạp chí khoa học chất lượng cao
Đẩy nhanh việc thực hiện Kế hoạch Hành động về Các tạp chí định kỳ KH&CN Trung Quốc, thúc đẩy xây dựng các tạp chí hàng đầu, bồi đắp cho các tạp chí chủ chốt và các tạp chí chuẩn, khuyến khích thành lập các tạp chí tiếng Anh cao cấp và nâng cao chất lượng các bài tóm tắt tiếng Anh cho các tạp chí Trung Quốc; Tạo lập chỉ mục cho “Khoa học đặc thù Trung Quốc có ảnh hưởng quốc tế”. Khuyến khích các bài báo được tài trợ tài chính công bố trên các tạp chí KH&CN chất lượng cao trong nước.
Cải thiện cơ chế cảnh báo sớm cho các tạp chí học thuật, thường xuyên công bố danh sách cảnh báo sớm các tạp chí học thuật trong nước và quốc tế, thực hiện theo dõi liên tục và điều chỉnh kịp thời. Lập danh sách đen các tạp chí học thuật với quản lý kém và danh tiếng học thuật và lợi ích kinh doanh kém.
8. Tăng cường quản lý chi phí xuất bản công bố. Thiết lập các biện pháp quản lý quỹ phù hợp với việc loại bỏ định hướng “Chỉ tính bài báo”, kiểm soát chặt chẽ phạm vi tài trợ công bố và quản lý chặt chẽ việc xuất bản các tài liệu.
Đối với các công trình đại diện và “ba dạng công bố chất lượng cao” được tạo ra trong khuôn khổ thực hiện các dự án của Kế hoạch KH&CN Quốc gia, chi phí xuất bản có thể được chi trả theo quy định của các quỹ đặc biệt cho các dự án của Kế hoạch KH&CN Quốc gia, các chi phí xuất bản khác không được phép. Đối với việc xuất bản một công bố với chi phí vượt quá 20.000 nhân dân tệ, cần phải được sự chấp thuận của Hội đồng học thuật của tổ chức của tác giả liên hệ hoặc tác giả đứng đầu về sự cần thiết phải xuất bản bài báo trước khi có thể được sử dụng quỹ đặc biệt của Dự án Kế hoạch KH&CN Quốc gia.
Đối với các bài báo công bố trên các tạp chí nằm trong “danh sách đen” và danh sách cảnh báo sớm, thì chi phí xuất bản không được chi từ quỹ đặc biệt của các dự án Kế hoạch KH&CN Quốc gia. Không được phép sử dụng các quỹ đặc biệt của các dự án Kế hoạch KH&CN Quốc gia để thưởng cho việc xuất bản các bài báo. Đối với những người vi phạm các quy định, các quỹ khen thưởng và quỹ cân đối dự án có liên quan sẽ bị thu hồi.
Trong quá trình đánh giá hiệu suất tổng thể của dự án, tổ chức quản lý dự án sẽ tăng cường kiểm tra việc công bố các bài báo được liệt kê trong quỹ đặc biệt cho các dự án Kế hoạch KH&CN Quốc gia.
Các trường đại học, viện nghiên cứu có liên quan, v.v. sẽ xem xét sự cần thiết của việc xuất bản công bố và sự liên quan với nghiên cứu dự án; đối với các công bố có liên quan đến an ninh và bí mật quốc gia, cần xem xét và tăng cường quản lý chặt chẽ. Không được gắn số lượng bài báo được công bố, các chỉ số ảnh hưởng của tạp chí, vv vào việc thưởng.