“Mục tiêu cuối cùng của giáo dục là gì?” - cách đây hơn 10 năm, một phong trào giáo dục đã đi tìm và tìm ra câu trả lời cho riêng mình và đang dần trở thành ngọn cờ mạnh mẽ trong nghiên cứu cũng như thực hành giáo dục trên thế giới hiện nay, đó là phong trào Giáo dục tích cực.
Trụ cột của một triết lý giáo dục mới
Trong bài báo mở đầu cuốn sách “Handbook of Positive Psychology” (NXB Oxford), cha đẻ của lĩnh vực Tâm lý học tích cực - TS Martin E.P Seligman - đã kể câu chuyện về cơ duyên ông tìm đến và nghiên cứu về lĩnh vực này: Lần đó, Seligman đang nhổ cỏ dại trong vườn thì cô con gái Nikki của ông chạy nhảy xung quanh và ném những nắm cỏ lên không trung, thật cao, thật cao. Khi ông mắng Nikki, cô bé đã nói: “Ba hãy nhớ lại trước sinh nhật lần thứ 5 của con. Lúc đó con là một cô bé không ngừng rên rỉ, khóc lóc. Sau năm 5 tuổi, con đã quyết định ngừng việc đó lại. Và ba à, nếu con đã có thể làm như thế thì ba, ba cũng có thể ngừng lại việc cằn nhằn của mình”. Khoảnh khắc lóe sáng này đã giúp Seligman nhận ra một bài học cho ông và các đồng nghiệp của mình, đó là việc nuôi dạy trẻ nhỏ không đơn giản chỉ là quá trình sửa chữa và khắc phục những điểm yếu của chúng mà (quan trọng hơn) là quá trình nhận ra, ghi nhận và nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp để giúp chúng tìm ra con đường đạt được cuộc sống viên mãn dựa trên những phẩm hạnh này.
Ý tưởng đó đã thôi thúc Seligman tập trung nghiên cứu và mở ra một nhánh mới trong Khoa học tâm lý: Trong 2 năm 1998 và 1999, khi được bầu làm Chủ tịch Hiệp hội Tâm lý học Hoa kỳ (APA), Seligman đã lấy Tâm lý học tích cực làm chủ đề thảo luận và nghiên cứu chuyên sâu. Ông cùng với hai cộng sự thân thiết là Mihaly Csikszentmihalyi và Christopher Peterson đã thiết lập mô hình hạnh phúc PERMA, đưa ra những gợi ý về 5 thành phần giúp kiến tạo nên một đời sống hạnh phúc. Nhóm của ông cũng đưa ra lý thuyết về điểm mạnh nhân cách VIA (Values in action inventory of Strengths), nghiên cứu về 6 lớp nhân đức (Virtue) và 24 điểm mạnh nhân cách (Character strengths) của con người xuyên suốt các nền văn hoá và các thời đại, tôn giáo khác nhau, đưa tới một cái nhìn tích cực và có tính xây dựng về con người, đồng thời giúp mở rộng suy nghĩ hợp tác – phát triển giữa các cá nhân với nhau. Lý thuyết VIA đã được GS.Howard Gardner – cha đẻ của Lý thuyết Đa trí thông minh - đánh giá là “một trong những sáng kiến quan trọng nhất trong Tâm lý học nửa thế kỷ qua”.
Trải qua hơn 30 năm nghiên cứu và thực hành, Tâm lý học tích cực đã được công nhận như một nhánh của Khoa học tâm lý, bổ sung cho những lý thuyết về Bệnh học, để giúp con người không những bù đắp được điểm yếu của họ, trở nên bình thường mà còn có thể hướng tới một đời sống hạnh phúc và an lạc.
Tâm lý học tích cực đã được ứng dụng rất hiệu quả vào giáo dục, tạo ra những can thiệp thực chứng giúp xây dựng Nhà trường Hạnh phúc; Lớp học Hạnh phúc…, từ đó trở thành lý thuyết trụ cột của một triết lý, một phong trào giáo dục mới, đó là Giáo dục tích cực.
Nâng cao cảm nhận hạnh phúc và cải thiện thành tích học tập
Trong một cuộc nói chuyện với thính giả là các nhà giáo dục và phụ huynh, TS Seligman đưa ra 2 câu hỏi:
Câu hỏi 1: Bằng 2 từ, xin mời các bạn hãy nói lên ước muốn về cuộc sống của con bạn sau này.
Với câu hỏi này, có rất nhiều câu trả lời như thành công, vui vẻ, giàu có… Tuy nhiên phần lớn các thính giả có mặt ngày hôm đó đã trả lời rằng họ muốn con mình có một đời sống hạnh phúc, an lạc, và hài lòng.
Câu hỏi 2: Nhà trường hiện tại đang dạy gì cho những đứa trẻ?
Câu trả lời liệt kê hàng loạt các môn học như Toán, Ngôn ngữ, Vật lý, Công nghệ thông tin, hay Lịch sử, Triết học. Những nhà trường hiện đại được nhắc tới ở đây chưa từng có một chương trình bài bản về hạnh phúc để dạy cho học sinh của mình.
Từ hai câu hỏi này, Seligman đã định nghĩa về Giáo dục tích cực như sau: “Giáo dục tích cực dựa trên hạnh phúc của trẻ được xem như một liệu pháp đối phó với trầm cảm, một phương tiện để tăng sự hài lòng trong cuộc sống và như một trợ giúp để học tập tốt hơn và tư duy sáng tạo hơn”.
Ông cho rằng, giáo dục tích cực được xây nên từ một số trụ cột như: Giáo dục dựa trên sự ghi nhận, đánh giá cao và thúc đẩy điểm mạnh của học sinh; Tạo ra những cải thiện có thể đo lường được về hạnh phúc và hành vi của học sinh; Tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tham gia vào việc học tập sáng tạo và nâng cao thành tích.
Giáo dục tích cực được thiết kế và triển khai theo nguyên lý của Giáo dục dựa trên bằng chứng, vì vậy không thể thiếu sự đo lường và kiểm tra – đánh giá cả chương trình lẫn kết quả thực hành. Sự đo lường trong Giáo dục tích cực bao gồm 3 thành tố chính:
Thứ nhất: Đo lường Hạnh phúc bằng việc sử dụng các thang đo trong mô hình EPOCH (Kern, Benson, Steinberg, & Steinberg, 2016) đối với trẻ em, và PERMA-Profiler (Butler & Kern, 2016) dựa trên việc phân tích mô hình PERMA và sự tương quan của nó tới cảm nhận hạnh phúc chủ quan và sự hài lòng trong cuộc sống của học sinh, giáo viên và nhân viên trong trường.
Thứ hai: Đo lường về sự “Không hạnh phúc” với các nhân tố như trầm cảm, lo âu, sử dụng các thang đo như Thang đo trầm cảm ở trẻ em (Kovacs, 2004); Thang đo trầm cảm cho trẻ em; Thang đo lo âu dành cho trẻ em và người lớn (Beck, Steer, & Brown, 1996 ; Radloff, 1977). Những nhân tố này được cho là những yếu tố cản trở học sinh đạt được cuộc sống hạnh phúc.
Thứ ba: Đo lường thành tích học tập được tiến hành bằng việc sử dụng điểm thi của học sinh trong các kỳ thi trong năm học hoặc điểm trung bình cả kỳ học/năm học.
Với 3 hình thức đánh giá và đo lường nêu trên, Giáo dục tích cực một lần nữa khẳng định mục tiêu của mình, đó là “Nâng cao cảm nhận hạnh phúc và hài lòng cho học sinh, đồng thời cải thiện thành tích học tập trong nhà trường”.
Hành trình Giáo dục tích cực đã trải qua hơn 10 năm hình thành và phát triển. Cho tới nay, các mô hình trường học đi theo và áp dụng triết lý, chương trình giảng dạy của Giáo dục tích cực đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Khá nhiều các bài báo học thuật, các cuốn sách viết về Giáo dục tích cực đã được xuất bản. Hiệp hội Giáo dục tích cực quốc tế (IPEN) cũng được thành lập vào năm 2014, đặt trụ sở tại London. Seligman chính là một trong những người thành lập nên tổ chức này và hiện nay vẫn là thành viên.
Trong bài báo đăng ở Global Happiness Policy Report 2018 – báo cáo của Hội đồng Hạnh phúc toàn cầu (GHC) nhằm cung cấp các bằng chứng và khuyến nghị chính sách về các mô hình tốt nhất để thúc đẩy hạnh phúc - TS Seligman điểm qua một số chương trình; trường học; và các trung tâm giáo dục, nghiên cứu và sức khoẻ tâm thần… đã áp dụng thành công Giáo dục tích cực.
Trong số đó, có trường nội trú Geelong (GGS) của Úc, nơi đầu tiên trên thế giới áp dụng mô hình Giáo dục tích cực vào năm 2008 và thành lập Viện nghiên cứu, giáo dục tích cực vào năm 2014. Đến nay, Geelong đã tổ chức hàng trăm hội thảo và các buổi đào tạo, chuyển giao mô hình giáo dục tích cực cho các nhà giáo dục và các trường học khắp nơi trên thế giới.
Nghiên cứu theo chiều dọc trong vòng 3 năm (2014 – 2016), của Đại học Melbourne đã đánh giá kết quả áp dụng Giáo dục tích cực tại GGS như sau: Cả học sinh Lớp 9 và Lớp 10 trong chương trình Giáo dục tích cực đã cải thiện đáng kể sức khỏe tâm thần (giảm các triệu chứng trầm cảm và lo lắng) và gia tăng sự hạnh phúc (ví dụ, sự hài lòng trong cuộc sống, cảm xúc tích cực…) so với các học sinh trong nhóm đối chứng không tham gia Giáo dục tích cực. Kết thúc 3 năm học, học sinh tại GGS đã báo cáo mức độ hài lòng, hạnh phúc, lòng biết ơn và sự kiên trì cao hơn đáng kể so với học sinh trong nhóm đối chứng.
Bài báo của Seligman còn cho biết, năm 2014, tại thành phố Tăng Thành thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc hơn 10.000 hiệu trưởng và giáo viên chủ nhiệm đã được đào tạo về Giáo dục tích cực bởi Trung tâm nghiên cứu Tâm lý tích cực thuộc Đại học Thanh Hoa. Tính đến tháng 10/2017, có khoảng 350 - 400 trường mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở thành phố này đã áp dụng Giáo dục tích cực, với 260.000 học sinh, và 80.000 giáo viên đã được đào tạo về Giáo dục tích cực. Kết quả, theo các báo cáo, Giáo dục tích cực đã giúp các giáo viên nâng cao sự tận tâm với nghề; nâng cao thành tích học tập cho học sinh trong năm 2017 so với các năm trước, đồng thời giảm tỷ lệ học sinh tự tử.
Trong khi đó, cũng theo bài báo, ở Bhutan, Chương trình Giáo dục tích cực được đưa vào dự án Tổng Hạnh phúc Quốc gia (GNH). Bộ Giáo dục và Đào tạo Bhutan đã kết hợp với Trung tâm Tâm lý tích cực tại Đại học Pennsylvania để hợp tác phát triển Chương trình giảng dạy GNH nhằm vào mười kỹ năng sống tích cực cho học sinh từ lớp 7 tới 12. Kết quả, Giáo dục tích cực đã đồng thời làm gia tăng sự an lạc và kết quả trong kỳ thi tiêu chuẩn quốc gia cho học sinh (Adler, 2016).
Giáo dục tích cực Kỳ 2: Giáo dục tích cực đã đến Việt Nam