Với việc ban hành Chiến lược sở hữu trí tuệ (SHTT) đến năm 2030, hệ thống SHTT của Việt Nam được kỳ vọng sẽ có những bước tiến vượt bậc, tạo động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và phổ biến sản phẩm sáng tạo, qua đó làm giàu tài sản trí tuệ - một nguồn tài nguyên tạo nên nội lực quốc gia phục vụ trực tiếp cho sự phát triển bền vững.


Tọa đàm Vai trò của sở hữu trí tuệ với phát triển kinh tế - xã hội” do Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KH&CN tổ chức năm 2019

Ngày nay, dư địa tăng trưởng dựa vào các nguồn lực lao động và tài nguyên không còn nhiều, Việt Nam bắt buộc phải phát triển kinh tế tri thức dựa vào tài sản trí tuệ để đạt được mục tiêu phát triển bền vững.

Trong bối cảnh ấy, ngày 22/8/2019 lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Sở hữu trí tuệtầm quốc gia, đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực SHTT, nhấn mạnh đây là công cụ quan trọng góp phần đẩy mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

Nhu cầu phát triển tài sản trí tuệ cho giai đoạn mới

Nhìn lại chặng đường phát triển gần 40 năm, có thể thấy hệ thống SHTT của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: có khung pháp lý SHTT phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; một mạng lưới các cơ quan - tổ chức có chức năng thực thi pháp luật SHTT; số lượng tài sản trí tuệ (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, giống cây trồng, tác phẩm văn học – nghệ thuật…) được tạo ra và bảo hộ không ngừng tăng lên, góp phần nâng cao giá trị tinh thần và vật chất cho xã hội; SHTT ngày càng được quan tâm.

Tài sản trí tuệ đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong kết cấu giá trị của các doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy số lượng đơn, bằng sáng chế và giải pháp hữu ích của tổ chức, cá nhân Việt Nam tăng đều trong những năm gần đây (trung bình 9,86%/năm đối với đơn nộp và 20,05%/năm đối với bằng được cấp trong giai đoạn 2006-2018). Nhiều doanh nghiệp lớn đã sở hữu trong tay một số sáng chế và rất nhiều nhãn hiệu được bảo hộ độc quyền. Nhiều viện trường đã kết nối với doanh nghiệp để ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh tài sản có trình độ sáng tạo cao là sáng chế, các tài sản trí tuệ khác như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cũng được các tổ chức, cá nhân quan tâm, đăng ký bảo hộ và đưa vào khai thác thương mại. Phần lớn doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu và chủ động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu từ sớm. Các địa phương trong cả nước đều triển khai nhiều chương trình, dự án thúc đẩy sử dụng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận hay nhãn hiệu tập thể, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế.

Một số dấu hiệu tích cực như, trong khuôn khổ Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020, đã có gần 200 sản phẩm nông nghiệp chủ lực, đặc thù của địa phương được hỗ trợ đăng ký bảo hộ quyền SHTT và đưa vào sản xuất kinh doanh. Nhiều sản phẩm sau khi được bảo hộ đã được người tiêu dùng biết đến rộng rãi, uy tín sản phẩm được nâng cao, giá trị sản phẩm gia tăng đáng kể như cam Cao Phong, nước mắm Phú Quốc, vải thiều Lục Ngạn, bưởi Năm Roi Bình Minh…

"Đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền Sở hữu trí tuệ”

Tuy đạt được những nền tảng quan trọng như vậy, nhưng đánh giá một cách khách quan thì hoạt động SHTT vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ các đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội, chưa thực sự phát huy vai trò động lực cho phát triển KH&CN và đổi mới sáng tạo. Số lượng tài sản trí tuệ của Việt Nam, đặc biệt là sáng chế chưa nhiều, giá trị tài sản còn nhỏ, chưa có nhiều sản phẩm trí tuệ mang tính đột phá và có giá trị cạnh tranh trong khu vực cũng như thế giới.

Một nghiên cứu của Bộ KH&CN cho thấy, những năm gần đây số lượng đơn sáng chế (bao gồm cả giải pháp hữu ích) nội địa tính trên đầu người của Việt Nam khoảng 10 đơn/1 triệu dân. Năm 2018, tỷ lệ đơn sáng chế của người nộp đơn Việt Nam so với tổng số đơn sáng chế được nộp tại Việt Nam chỉ chiếm 15,3%.

Bên cạnh đó, việc thương mại hóa tài sản trí tuệ chưa được quan tâm, chủ yếu diễn ra ở phạm vi hẹp về ngành nghề, tập trung ở công nghệ của nước ngoài. Các sáng chế, công nghệ của Việt Nam chưa được thương mại hóa và chuyển giao, ứng dụng rộng rãi. Nguyên nhân chính do trình độ sáng tạo chưa cao, không đủ hấp dẫn dể kêu gọi đầu tư…

Các tài sản trí tuệ khác như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý tăng nhiều trong những năm gần đây, tuy nhiên chưa có nhiều doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được các thương hiệu mạnh, nhiều chỉ dẫn địa lý chưa phát huy được giá trị của mình v.v..

Những tồn tại, hạn chế này xuất phát từ một số nguyên nhân chính:

- Nhận thức về việc sử dụng quyền SHTT làm công cụ phát triển KH&CN và sản xuất kinh doanh còn hạn chế, do vậy các tổ chức, doanh nghiệp chưa quan tâm xây dựng chính sách SHTT hay quản lý tài sản trí tuệ; thiếu hụt về nguồn nhân lực có chuyên môn về SHTT, thiếu nguồn kinh phí hoạt động.

- Mối quan hệ hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu - các chủ thể sáng tạo với doanh nghiệp còn hạn chế, do đó kết quả nghiên cứu tạo ra không đáp ứng nhu cầu thực tiễn, không có địa chỉ ứng dụng; ngược lại, các chủ thể sáng tạo cũng dè dặt trong nhận đặt hàng từ phía doanh nghiệp do năng lực nghiên cứu chưa đáp ứng các yêu cầu về chất lượng.

- Các tổ chức, doanh nghiệp không hiểu rõ về thủ tục đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, thời gian xử lý đơn kéo dài, tình trạng xâm phạm quyền ngày càng phức tạp và không được xử lý nghiêm minh... điều này phần nào làm nản chí các chủ thể sáng tạo.

- Các dịch vụ thông tin SHTT chưa đáp ứng đầy đủ cho các nhu cầu nghiên cứu KH&CN và phát triển sản xuất, kinh doanh.

Để phát huy vai trò động lực của SHTT

Để hệ thống SHTT phát triển toàn diện, hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu mới trong bối cảnh thúc đẩy kinh tế tri thức, phát triển bền vững, Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 đã xác định nhiều mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển tài sản trí tuệ.

Các giải pháp được đặt ra xuất phát từ việc phân tích 4 trụ cột chính của chu trình phát triển tài sản trí tuệ, đó là tạo ra (sáng tạo), xác lập quyền, khai thác (thương mại hóa) và bảo vệ quyền SHTT.

Mục tiêu phát triển hệ thống SHTT Việt Nam đến năm 2030

1) Đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền SHTT;

2) Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, công bằng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội;

3) Hiệu quả thực thi pháp luật SHTT được nâng cao rõ rệt, tình trạng xâm phạm quyền SHTT giảm đáng kể;

4) Tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức Việt Nam gia tăng cả về số lượng và chất lượng, cải thiện vượt bậc các chỉ số về SHTT của Việt Nam trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII):Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm, số lượng đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp tăng trung bình 6-8%/năm, số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu tăng trung bình 8-10%/năm; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12-14%/năm, 10-12% trong số đó được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài...

5) Hiệu quả sử dụng quyền SHTT được nâng cao và gia tăng đáng kể số lượng sản phẩm có hàm lượng SHTT cao:tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 8-10% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ; có ít nhất 1-2 giống cây trồng được khai thác quyền ở nước ngoài; phát triển một số ngành công nghiệp có mức độ sử dụng tài sản trí tuệ cao; số lượng doanh nghiệp sử dụng hiệu quả công cụ SHTT trong hoạt động sản xuất, kinh doanh tăng đáng kể; phấn đấu đến năm 2030 doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên quyền tác giả, quyền liên quan đóng góp khoảng 7% GDP…

Bên cạnh các giải pháp bao trùm toàn bộ hệ thống SHTT như giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật về SHTT và pháp luật liên quan; giải pháp về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; giải pháp về nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHTT; các giải pháp về nguồn nhân lực, về nâng cao nhận thức về SHTT…, có thể kể đến một số nhiệm vụ, giải pháp nổi bật và trực tiếp gắn với mục tiêu phát triển tài sản trí tuệ, cụ thể là:

Một là nhóm nhiệm vụ, giải pháp về thúc đẩy các hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ: Ở nhóm này, các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương sẽ tổ chức triển khai một loạt biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sáng tạo, qua đó gia tăng cả về số lượng và chất lượng của tài sản trí tuệ:

- Xây dựng, cung cấp các công cụ và dịch vụ thông tin SHTT cho các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp;

- Sử dụng các chỉ số đo lường về SHTT làm căn cứ đánh giá hiệu quả hoạt động của các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp.

- Xây dựng và triển khai các chương trình KH&CN, hỗ trợ các viện nghiên cứu, trường đại học hợp tác với doanh nghiệp để tạo ra kết quả nghiên cứu được bảo hộ quyền SHTT;

- Thúc đẩy hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo kết hợp với các hình thức đầu tư mạo hiểm nhằm ươm tạo các tài sản trí tuệ từ khâu hình thành ý tưởng, nghiên cứu, phát triển tài sản trí tuệ đến sản xuất thử nghiệm, hình thành doanh nghiệp khởi nghiệp;

- Hướng dẫn doanh nghiệp tạo dựng và khai thác hiệu quả các chỉ dẫn thương mại cho sản phẩm, dịch vụ của mình; hỗ trợ đăng ký bảo hộ các chỉ dẫn địa lý tiềm năng.

Hai là nhóm nhiệm vụ, giải pháp về khuyến khích, nâng cao hiệu quả khai thác tài sản trí tuệ. Nhóm giải pháp này được xây dựng nhằm đạt được mục tiêu về nâng cao hiệu quả sử dụng quyền SHTT, gia tăng đóng góp của SHTT vào GDP, trong đó đáng lưu ý là:

- Hình thành và phát triển mạng lưới trung tâm chuyển giao công nghệ và SHTT tại các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp nhằm thúc đẩy việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ;

- Hỗ trợ các viện nghiên cứu, trường đại học thành lập doanh nghiệp để khai thác quyền SHTT, rút ngắn quá trình ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh;

- Đẩy mạnh thực hiện cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp có mức độ sử dụng tài sản trí tuệ cao, tạo ra các sản phẩm có uy tín và chất lượng, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá có hàm lượng SHTT cao;

- Hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh sử dụng công cụ SHTT trong hoạt động sản xuất kinh doanh;

- Mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ trung gian để tăng cường kết nối cung cầu về tài sản trí tuệ; đẩy mạnh hoạt động đánh giá, định giá tài sản trí tuệ làm cơ sở thực hiện các giao dịch trên thị trường;

- Tăng cường khai thác, phân tích thông tin sáng chế phục vụ cho việc lựa chọn và khai thác công nghệ phù hợp;

- Tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả chỉ dẫn địa lý, nguồn gen, tri thức truyền thống, bí quyết kỹ thuật, văn hóa dân gian nhằm khai thác tiềm năng sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam.

Thử sản phẩm que thử phát hiện nhanh virus rota gây bệnh tiêu chảy ở trẻ em (đã được Cục SHTT cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích) tại Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm, Đại học Bách khoa Hà Nội |Ảnh: KH&PT
Thử sản phẩm que thử phát hiện nhanh virus rota gây bệnh tiêu chảy ở trẻ em tại Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm, Đại học Bách khoa Hà Nội. Sản phầm này đã được Cục SHTT cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 2-0002106 công bố ngày 25/9/2019 |Ảnh: KH&PT

Có thể thấy rõ, Chiến lược hướng đến thúc đẩy hoạt động tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ, trong đó đặt ưu tiên hàng đầu vào việc tăng cường liên kết giữa các viện, trường và doanh nghiệp. Các tổ chức nghiên cứu được tạo điều kiện thuận lợi hơn để nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. Các doanh nghiệp, chủ thể có vai trò chủ đạo trong khai thác tài sản trí tuệ, có cơ hội được hưởng những cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi để tăng cường khai thác tài sản trí tuệ, sử dụng quyền SHTT như một công cụ hữu hiệu để nâng cao tính cạnh tranh.

Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp

Đến nay, việc tổ chức thực hiện Chiến lược trong từng ngành lĩnh vực, từng địa phương đã bắt đầu được các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai. Tuy nhiên, Chiến lược chỉ có thể được thực hiện hiệu quả, hệ thống SHTT chỉ có thể có những bước phát triển vượt bậc nếu có sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể, trong đó "viện nghiên cứu, trường đại học và đặc biệt là các doanh nghiệp, đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ."

Được xác định là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, các doanh nghiệp cần làm gì để phát huy tốt nhất hiệu quả hoạt động SHTT của mình? Mỗi doanh nghiệp, ở mỗi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động và mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, sẽ có những chiến lược, chính sách, kế hoạch hành động riêng, tuy nhiên để sớm đi đến thành công, các doanh nghiệp cần chủ động và tích cực hơn trong những vấn đề sau:

- Nâng cao nhận thức và kiến thức về bảo hộ quyền SHTT, chủ động bảo vệ quyền SHTT của mình và tôn trọng quyền SHTT của tổ chức, cá nhân khác;

- Đánh giá tác động và xác định các yếu tố liên quan đến SHTT trong chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;

- Nâng cao năng lực quản trị tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp, ý thức đầu tư tạo ra tài sản trí tuệ và khả năng khai thác tài sản trí tuệ.

- Đẩy mạnh sử dụng thông tin SHTT, đặc biệt là thông tin sáng chế, nhằm định hướng cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, dự báo xu hướng phát triển công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời nâng cao năng lực hấp thụ các công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhưng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

Lời kết

Với quyết tâm của Chính phủ, sự đồng thuận, nỗ lực của tất cả các chủ thể trong xã hội, và đặc biệt với nhiệt huyết của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, tin rằng Chiến lược Sở hữu trí tuệ sẽ được triển khai đồng bộ, toàn diện và hiệu quả, tạo động lực cho hoạt động đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Năm nay, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã chọn thông điệp kỷ niệm Ngày sở hữu trí tuệ thế giới là “Innovate for a Green Future - Đổi mới sáng tạo vì một tương lai xanh" với mục tiêu tạo ra một chiến dịch lấy đổi mới sáng tạo và các quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) hỗ trợ cho đổi mới sáng tạo làm trung tâm của những nỗ lực tạo ra một tương lai xanh. Báo KH&PT trân trọng giới thiệu loạt bài về chính sách phát triển tài sản SHTT, giới thiệu các sáng chế, giải pháp hữu ích đã được bảo hộ và ứng dụng vào thực tiễn nhằm góp phần phát triển bền vững và mở ra con đường dẫn đến tương lai xanh cho đất nước.