Sherlock Holmes ghi nhớ mọi thứ bằng cách tưởng tượng rằng ông đang lưu trữ thông tin trong một “cung điện ký ức”, một kỹ thuật có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại. Giờ đây, các nhà nghiên cứu đã chứng minh phương pháp này thực sự có tác dụng tạo ra những ký ức lâu dài.

Sherlock Holmes là một nhân vật thám tử hư cấu, do nhà văn người Anh Arthur Conan Doyle sáng tạo nên. Holmes nổi danh với khả năng quan sát, diễn dịch, am hiểu về khoa học pháp y và khả năng suy luận logic tuyệt vời. Đây những yếu tố giúp ông phá được nhiều vụ án phức tạp.

Thám tử Sherlock Holmes trong bộ phim The Adventures of Sherlock Holmes (1939). Ảnh: Alamy.

Holmes áp dụng một kỹ thuật ghi nhớ có thật được gọi là phương pháp loci. Từ “loci” là dạng số nhiều của từ “locus”, có nghĩa là vị trí hoặc nơi chốn. Người sử dụng phương pháp loci sẽ tưởng tượng mình đang đi dạo quanh một địa điểm quen thuộc, chẳng hạn như một con đường [trong trường hợp của Holmes là một cung điện].

Để ghi nhớ một dữ liệu thông tin nào đó, bạn có thể “thả” nó tại một vị trí dọc theo con đường quen thuộc trong tưởng tượng của bạn. Khi cần truy xuất thông tin, bạn sẽ hình dung đang đi bộ trở lại vị trí đó và “nhặt nó lên”. Ví dụ, nếu bạn là người đã biết mọi ngõ ngách tại Công viên Trung tâm ở thành phố New York (Mỹ), bạn có thể tưởng tượng trong lúc đi bộ tại công viên, bạn thả từ “sách” ở Nhà thuyền (Boat House), sau đó là từ “chai nước” ở khúc cua tiếp theo, cuối cùng là từ “không gian” tại đài phun nước. Khi bạn muốn nhớ các từ, bạn hãy hồi tưởng lộ trình đã đi trong công viên theo thứ tự ban đầu, nhờ đó kích hoạt khả năng nhớ lại thông tin.

Bằng cách luyện tập theo phương pháp loci, các nhà vô địch trí nhớ thế giới có thể ghi nhớ một lượng lớn thông tin không theo thứ tự, chẳng hạn như danh sách các từ, dãy số và bộ bài, theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Advances vào tháng 3/2021. Tuy nhiên, Giải Vô địch Trí nhớ Thế giới (World Memory Championships) chỉ kiểm tra trí nhớ ngắn hạn, và hiện nay chỉ có một số ít các nghiên cứu đã xem xét bộ não của những người sử dụng phương pháp này để cải thiện trí nhớ.

“Chúng tôi bị cuốn hút bởi khả năng đạt được hiệu suất trí nhớ phi thường từ những người tham gia Giải Vô địch Trí nhớ Thế giới”, Isabella Wagner, tác giả chính của nghiên cứu tại Đại học Vienna (Áo), cho biết. “Phương pháp loci sử dụng các địa điểm hoặc tuyến đường quen thuộc như một giàn giáo hoặc bộ khung để liên kết với các thông tin mới lạ, không liên quan. Sự kết hợp giữa những điều đã biết trước đó – lộ trình quen thuộc – và thông tin mới tạo ra những liên kết rất mạnh mẽ giúp tăng cường trí nhớ”.

Để đánh giá phương pháp loci, Wagner và cộng sự đã tuyển chọn 17 “vận động viên trí nhớ” chuyên nghiệp, những người được xếp hạng top 50 thế giới trong các cuộc thi về trí nhớ. Họ cũng tuyển chọn 16 người khác tương đồng với các vận động viên về nhiều đặc điểm như tuổi tác và trí thông minh. Nhóm nghiên cứu đã chụp ảnh cộng hưởng từ (fMRI) bộ não của những người tham gia trong khi yêu cầu họ học thuộc các từ ngẫu nhiên trong một danh sách. Sau đó, các nhà khoa học đưa cho những người tham gia mỗi lần ba từ trong danh sách và yêu cầu họ nhớ lại xem các từ có ghi theo đúng thứ tự đã học thuộc trước đó hay không.

Trong phần thứ hai của nghiên cứu, Wagner tuyển chọn 50 người trước đây không có kinh nghiệm về các phương pháp ghi nhớ. Wagner đào tạo cho 17 người trong số họ ghi nhớ bằng phương pháp loci trong sáu tuần. Những người tham gia còn lại thuộc nhóm kiểm soát [hay nhóm đối chứng]. Nhóm nghiên cứu quét não của những người tham gia bằng fMRI khi họ thực hiện các nhiệm vụ giống nhau, cả trước và sau quá trình đào tạo. Các nhà khoa học cũng yêu cầu những người tham gia nhớ lại các từ cần ghi nhớ trong danh sách sau khi quét fMRI 20 phút và 24 giờ. Họ dùng bài kiểm tra này để xác định trí nhớ ngắn hạn [hoặc những ký ức có thể nhớ được sau 20 phút nhưng không phải sau 24 giờ], và trí nhớ dài hạn [những ký ức có thể nhớ được sau 24 giờ]. Bốn tháng sau, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra lại khả năng ghi nhớ của những người tham gia.

Kết quả cho thấy, những người tham gia có trí nhớ dài hạn tốt hơn sau khi luyện tập với phương pháp loci. Nhưng họ không có sự thay đổi đáng kể về trí nhớ ngắn hạn so với nhóm đối chứng.

Sau 20 phút, những người sử dụng phương pháp loci nhớ trung bình khoảng 62 từ trong danh sách, trong khi những người không được đào tạo chỉ nhớ được 36 từ. Sau 24 giờ, những người sử dụng phương pháp loci nhớ khoảng 56 từ trong danh sách, so với 21 từ tương ứng ở nhóm đối chứng.

Bốn tháng sau, những người được đào tạo theo phương pháp loci có thể nhớ trung bình khoảng 50 từ với một danh sách các từ mới, so với 27 từ ở nhóm đối chứng. Hơn nữa, dữ liệu quét não fMRI cho thấy các vận động viên trí nhớ hàng đầu thế giới và những người tham gia được đào tạo theo phương pháp loci có hoạt động não tương tự nhau khi họ ghi nhớ danh sách các từ và thứ tự của chúng.

Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy một điều bất ngờ. “Trong khi các vận động viên trí nhớ và những người học phương pháp loci tham gia vào các bài kiểm tra, cường độ hoạt động trong não của họ thấp hơn so với nhóm đối chứng ở những khu vực não liên quan đến xử lý trí nhớ và trí nhớ dài hạn”, Wagner cho biết. “Điều này khiến chúng tôi hơi ngạc nhiên, vì hiệu suất ghi nhớ tốt hơn thường liên quan đến việc gia tăng mức độ hoạt động ở các vùng não khác nhau”.

Nói cách khác, nhóm nghiên cứu phát hiện việc kích hoạt não ít hơn dẫn đến trí nhớ tốt hơn. Điều này có thể là do phương pháp loci thúc đẩy não hoạt động hiệu quả hơn, thông qua việc gia tăng các liên kết giữa những vùng não quan trọng có nhiệm vụ lưu trữ trí nhớ dài hạn.

“Hầu như ai cũng có thể học cách sử dụng phương pháp loci. Mặc dù phương pháp này đòi hỏi phải luyện tập thường xuyên nên có thể không phù hợp với tất cả mọi người, nhưng nó chắc chắn có thể giúp bạn tăng cường trí nhớ và đạt được hiệu suất bộ nhớ cao hơn, thậm chí trở nên vượt trội”, Wagner nhận định.

Hiện tại, nhóm nghiên cứu chưa thể xác định phương pháp loci có thể giúp giảm bớt tình trạng suy giảm nhận thức trong quá trình lão hóa tự nhiên hay không, hoặc mức độ hiệu quả của nó trong việc hỗ trợ điều trị các bệnh liên quan đến trí nhớ. “Tuy nhiên, chúng tôi rất vui mừng về những kết quả đã đạt được. Đây sẽ là tiền đề cho các nghiên cứu trong tương lai để giải đáp những câu hỏi tương tự như trên”, Wagner nói trên.