Vải Thanh Hà (Hải Dương) tăng 12 lần giá bán nhờ xuất được sang Úc, chè Tân Cương có giá cao gấp đôi sản phẩm cùng loại… là những ví dụ cho thấy, khoa học - công nghệ là cú hích giúp giá trị của nhiều đặc sản địa phương tăng mạnh giá trị.
Đổi thay nhỏ, lợi nhuận lớn
Theo
ông Nguyễn Thanh Bình, Giám đốc Trung tâm Phát triển tài sản trí tuệ,
Cục Sở hữu trí tuệ - việc các đặc sản được bảo hộ chỉ dẫn địa lý (CDĐL)
tạo cơ hội cho nhiều địa phương khai thác lợi thế tài sản trí tuệ. Tuy
nhiên, nhiều sản phẩm lâu đời có chất lượng phụ thuộc bí quyết của người
dân; nếu bí quyết đó không được giữ gìn, cải tiến thì chất lượng, lợi
thế đặc thù dễ mất đi. Nhận thức được điều này, một số địa phương có sản
phẩm được bảo hộ CDĐL gần đây rất chú trọng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
để tăng chất lượng và giá trị sản phẩm.Vải thiều Thanh Hà là một ví dụ.
Tuy
nổi tiếng với hương vị đặc biệt nhưng để xuất sang các thị trường khó
tính, vải Thanh Hà vẫn cần đáp ứng tiêu chuẩn nghiêm ngặt của họ. Nhằm
khắc phục các tồn tại và khai thác hiệu quả giá trị của CDĐL, huyện
Thanh Hà (Hải Dương) đã triển khai sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn
VietGAP trên 3 xã Thanh Sơn, Thanh Xá, Thanh Thủy.
Bà
Nguyễn Thị Huệ - Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Thanh Hà - cho biết: “Trên thị trường vải có sự cạnh tranh giữa
vải thiều Thanh Hà và vải thiều Bắc Giang. Về mặt cảm quan, vải thiều
Bắc Giang quả to và đẹp hơn, vải Thanh Hà lại có ưu thế ở hương vị. Để
nâng mẫu mã và chất lượng, cạnh tranh được với các loại vải khác, chúng
tôi đã đưa quy trình VietGap vào sản xuất. Sau 2 năm triển khai, mỗi năm
Thanh Hà có khoảng150ha vải được chứng nhận đạt chuẩn VietGAP, giá sản
phẩm tăng 10-15%”.
Tuy
đã đủ khả năng vào các thị trường khó tính như Mỹ, Úc..., nhưng vải
thiều Thanh Hà vẫn không xuất khẩu được do nhanh hỏng. Vấn đề này đã
được khắc phục nhờ công nghệ chiếu xạ nhằm ngăn sự phát triển của côn
trùng, vi sinh vật trong quả, giúp bảo quản lâu hơn, hiệu quả kinh tế
tăng vọt. Mỗi kilôgram vải bán trong nước giá 15.000 đồng, nhưng nếu chi
thêm 6.000 đồng phí chiếu xạ và xuất sang Úc sẽ bán được với giá
180.000-200.000 đồng/kg.
Chè
Tân Cương cũng là ví dụ thành công khác. Nhờ thay phân bón hóa học bằng
phân bón hữu cơ sinh học chuyên dùng cho chè, năng suất búp tươi tăng
từ 12,9-24,1%, chất lượng chè cũng cao hơn. Ở nương chè có mật độ búp
cao nhất, số lãi thu được lên đến hơn 200 triệu đồng/ha/năm. Hiện sản
phẩm chè mang CDĐL “Tân Cương” có giá bán cao gấp đôi các loại chè khác
của Thái Nguyên.
Khắc phục sự manh mún để tăng giá trị
Tuy
việc bảo hộ CDĐL và ứng dụng khoa học giúp các đặc sản địa phương tăng
hiệu quả kinh tế, nhưng theo bà Lê Thị Thu Hà - giảng viên bộ môn Sở hữu
trí tuệ, Đại học Ngoại thương Hà Nội, lợi thế sản phẩm chưa được phát
huy tối đa do vấn đề quy mô.
“Các
đặc sản mang đặc trưng vùng miền nên quy mô còn rất manh mún, phân tán,
không đồng đều. Ở châu Âu, cho dù là đặc sản vùng miền thì sản phẩm vẫn
được sản xuất ở quy mô công nghiệp. Cũng là hộ sản xuất nho, nhưng nho
được trồng trên những cánh đồng đủ diện tích để chăm sóc công nghiệp. Ở
Việt Nam, cây đặc sản chủ yếu được trồng trong vườn nhỏ, để biến thành
sản phẩm công nghiệp là rất khó. Như với vải Thanh Hà, tuy địa phương đã
ứng dụng quy trình VietGAP nhưng nhiều hộ có quy mô nhỏ, mỗi vườn
khoảng 5-7 cây, việc đầu tư ứng dụng khoa học trên diện tích nhỏ là rất
lãng phí” - bà Hà nói.
Theo
bà, phải mở rộng quy mô canh tác thì việc đầu tư các tiến bộ kỹ thuật
mới hiệu quả, đảm bảo đủ chất lượng. Ngoài ra, để thúc đẩy đầu ra cho
các sản phẩm ở thị trường EU, Đức, Mỹ, Úc…, Nhà nước cần đẩy mạnh các
hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá tại những thị trường này.
Ngoài
ra, theo ông Nguyễn Thanh Bình, sự nỗ lực đồng bộ từ nhiều phía - nhà
quản lý, nhà khoa học - sẽ giúp các địa phương nhanh chóng ứng dụng tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất hàng hoá đặc sản. Các địa phương cũng cần hỗ
trợ thành lập hiệp hội các nhà sản xuất, thống nhất được quy trình quản
lý, quy trình công nghệ - kỹ thuật và phát triển sản phẩm một cách đồng
bộ, tạo ra những sản phẩm đồng nhất về chất lượng, giúp người tiêu dùng
tin tưởng sử dụng. Việc sản xuất theo quy trình chuẩn, quản lý chặt chẽ
từ khâu đầu vào, chọn giống, canh tác đến thu hoạch, đóng gói sẽ rất
thuận lợi cho việc xuất khẩu sang những thị trường khó tính.