Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc VKIST đề xuất chọn một số hộ thí điểm giải pháp tận dụng nguồn nhiệt tuần hoàn phục vụ sản xuất than để giảm phát thải khí CO, tiết kiệm chi phí.
Trong chuyến đi khảo sát thực tế làng nghề hầm than lớn nhất tỉnh Sóc Trăng ở xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách ngày 29/8, đoàn công tác của Bộ KH&CN đã xem xét các lò hầm than truyền thống tại một số hộ gia đình.
Xã Xuân Hòa là một trong những nơi phổ biến với nghề hầm than, với hơn 207 hộ vận hành 431 lò hầm than, tập trung chủ yếu ở ba ấp Hòa Thành, Hòa Lộc 2, Hòa An. Làng nghề đã được hình thành từ cách đây 70 năm.
Công việc của những hộ dân nơi đây là cho gỗ đước và củi tạp vào lò, châm lửa cho đến khi cháy hết thành than. Thời gian mỗi mẻ đốt từ 20 ngày đến một tháng. Khi than chín, chờ khoảng 20 ngày cho nguội mới dỡ than ra lò, bán cho thương lái.
Do thời gian đốt lò kéo dài hơn nửa tháng mới cho một mẻ than nên dân miền Tây gọi là hầm than.
Sản phẩm tạo ra là các loại than đước, thường được dùng để nướng thức ăn trong các nhà hàng lẩu nướng (do tính chất ít khói và tỏa nhiệt cao), dùng trong các lò rèn, lò gốm và các ngành công nghiệp cần nhiệt lượng cao; viết hoặc vẽ tranh; sản xuất than hoạt tính v.v
Ông Nguyễn Thành Duy, Giám đốc Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng, cho biết làng nghề không những giúp người dân có cuộc sống ổn định mà còn tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động địa phương.
Có hơn 1.000 người lao động tham gia vào các công việc này, với thu nhập bình quân khoảng 4-5 triệu đồng mỗi người/tháng. Nhìn chung, nghề hầm than ổn định, cho thu nhập cao hơn so với làm lúa hay trồng cây ăn trái nên nhiều hộ gia đình lựa chọn nghề này.
Mỗi năm, làng nghề cung ứng ra thị trường gần 34.000 tấn sản phẩm, đạt doanh thu gần 52 tỷ đồng, trong đó lợi nhuận hơn 30 tỷ đồng. Sản phẩm than được xuất khẩu sang Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và tiêu thụ rộng rãi ở thị trường trong nước.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, làng nghề hầm than gây ra khói bụi, khí thải ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, và giảm năng suất các vườn cây ăn trái gần đó.
Ông Nguyễn Văn Chuyển, chủ bảy lò hầm than, cho biết cơ sở của gia đình hoạt động hàng chục năm qua. Mấy năm trước, họ đã sử dụng hệ thống gom khói, phun sương nhằm giảm khói bụi, nhưng lượng khí CO vẫn còn nhiều. Ông nói rằng mình muốn được tiếp cận các công nghệ mới, hiệu quả hơn, không chỉ để nâng cao chất lượng than mà còn giảm ô nhiễm để có thể phát triển nghề lâu dài.
Trước bối cảnh đó, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy yêu cầu các đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN, cùng ngành chức năng, chính quyền địa phương chung tay phát triển giải pháp cho làng nghề.
Ông gợi ý, có thể đưa ra một giải pháp công nghệ liên hoàn bằng cách tận dụng nguồn nhiệt rất lớn từ các lò để bổ trợ nhau trong quá trình sản xuất, nhằm giảm chi phí, giảm phát thải khí CO. Bên cạnh đó, có thể xây dựng một bộ tiêu chí quản lý về chất lượng sản phẩm, hướng tới mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người dân.
Tại buổi làm việc, PGS.TS Vũ Đức Lợi, Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc VKIST, đánh giá rằng làng nghề hoạt động theo kinh nghiệm truyền thống, sản phẩm được tiêu thụ rộng, có thể xuất khẩu song chất lượng không đồng đều, chưa có tiêu chuẩn, quá trình sản xuất tốn nhiều thời gian, còn lãng phí nguồn nhiệt rất lớn.
Ông
đề xuất sắp tới, VKIST sẽ chọn một số hộ thí điểm giải pháp tận dụng nguồn nhiệt tuần hoàn phục vụ sản xuất than. Cụ thể, lắp đặt hệ thống truyền dẫn để dẫn nguồn nhiệt từ lò thứ nhất sang làm năng lượng nung đốt cho lò thứ hai, sau đó kế tiếp dần. Dĩ nhiên, nhiệt năng có thể giảm dần theo các lò. Tuy nhiên, quá trình bổ sung nhiệt này sẽ giúp người dân tiết kiệm một khoản chi phí đáng kể, giảm phát thải khí CO, từ đó giảm ô nhiễm môi trường.
Trong khi đó, đại diện Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng kiến nghị Bộ KH&CN xem xét hỗ trợ về quy trình sản xuất nhằm rút ngắn thời gian tạo sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm.