Người dân vùng cao Hà Giang có nước sạch mà không cần bơm bằng điện; người dân Hạ Long có thể tái sử dụng nước thải từ khu vực khai thác mỏ; Khu công nghiệp Trà Nóc Cần Thơ giám sát được chất lượng nước thải tại chỗ khi sử dụng phòng thí nghiệm di động...
Đó là kết quả của các dự án hợp tác song phương giữa Bộ KH&CN và Bộ Nghiên cứu và Giáo dục liên bang Đức (BMBF) trong thời gian qua, được báo cáo tại sự kiện “Ngày Khoa học Đức” do hai cơ quan này và Cơ quan trao đổi hàn lâm Đức phối hợp tổ chức tại TPHCM ngày 1/3, nhân dịp kỷ niệm 20 năm hợp tác KH&CN Việt Nam - Cộng hòa Liên bang Đức.
Phát biểu khai mạc tại sự kiện, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh cho biết, ngày 19/3/1997, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ KH&CN) Việt Nam và Bộ Nghiên cứu và Giáo dục liên bang Đức (BMBF) đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác nghiên cứu KH&CN, qua đó tạo cơ sở cho việc tăng cường các hoạt động hợp tác giữa hai nước về KH&CN.
Kể từ đó, nhiều thỏa thuận quan trọng khác đã được ký kết, tạo nền tảng pháp lý và môi trường thuận lợi để các tổ chức KH&CN của hai nước đẩy mạnh hợp tác về KH&CN. Được sự quan tâm ủng hộ,tài trợ kinh phí của BMBF và Bộ KH&CN, nhiều chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đã được triển khai, thu kết quả đáng khích lệ. Những dự án này đã hỗ trợ nhiều địa phương của Việt Nam giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý nước thải, quản lý tổng hợp tài nguyên nước, cấp nước sinh hoạt cho vùng cao, quản lý lưu vực sông,...
Quản lý tài nguyên nước, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là chương trình hợp tác song phương lớn nhất về số lượng và đóng góp kinh phí giữa hai Bộ cho đến thời điểm đó. Phần lớn kinh phí dành cho việc hợp tác với CHLB Đức của Bộ KH&CN Việt Nam được dành cho các dự án thuộc chương trình này, và BMBF cũng dành ra trên 70 triệu Euro. Các dự án về hồ Hoàn Kiếm, dự án WISDOM, AKIZ, RAME, REMON, Kawatech… đã và sẽ mang lại những tác động đáng kể tới sự phát triển kinh tế xã hội ở một số tỉnh Việt Nam.
Đặc biệt, dự án Kawatech “Nghiên cứu triển khai công nghệ khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước ở các vùng núi đá vôi Việt Nam, áp dụng thử nghiệm ở một số khu vực thuộc Công viên Địa chất toàn cầu Cao Nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang”, với giải pháp sử dụng bơm mới không dùng điện, đã góp phần cung cấp nước sạch cho đồng bào vùng cao Đồng Văn. Mô hình của dự án này hứa hẹn có thể nhân rộng ra các địa phương khác của Việt Nam.
Trong chương trình hợp tác nghiên cứu “Quan hệ đối tác quốc tế cho công nghệ và dịch vụ bền vững để bảo vệ khí hậu và môi trường” (CLIENT), Việt Nam là một trong các nước được Đức ưu tiên hợp tác. Ở giai đoạn 1, hai bộ đã cùng tài trợ cho 5 đề tài/dự án hợp tác nghiên cứu chung, với sự tham gia mạnh mẽ của giới doanh nghiệp Đức, góp phần giải quyết những vấn đề thực sự cấp bách đối với Việt Nam như giảm ùn tắc giao thông đô thị, cung cấp nước sạch cho vùng cao, tiếp thu công nghệ xử lý môi trường nước, công nghệ khai thác mỏ.
Hiện Bộ KH&CN phối hợp chặt chẽ với BMBF trong việc xây dựng các dự án thuộc khuôn khổ chương trình CLIENT II. Theo đó, Bộ BMBF sẽ tài trợ cho các dự án hợp tác nghiên cứu chung nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của Việt Nam như ứng phó với nạn hạn hán, xâm nhập mặn, bảo vệ mực nước ngầm, công nghệ tưới nước tiên tiến tiết kiệm nước, xử lý môi trường nước khu khai khoáng, dự báo tác động đến tài nguyên nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long do các đập thủy điện vùng thượng nguồn gây ra….
Hai bộ cũng đã phối hợp triển khai một chương trình hợp tác nghiên cứu chung về công nghệ sinh học trong nông nghiệp và y tế, cùng tài trợ cho 5 đề tài/dự án nghiên cứu chung giữa các nhà khoa học/doanh nghiệp Việt Nam và Đức (phía Đức đầu tư gần 3 triệu euro, phía Việt Nam đầu tư 19,2 tỉ VNĐ), bắt đầu thực hiện từ năm 2015 . Ngoài việc góp phần đào tạo nhân lực chất lượng cao, các đề tài hợp tác trong chương trình này đều có định hướng ứng dụng rõ rệt và có tiềm năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Ông Frithjof A.Maennel, Phó Tổng vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế về Nghiên cứu và giáo dục BMBF, cho biết, Việt Nam là đối tác quan trọng của Đức và là một trong 5 đối tác quan trọng của Đức trong tương lai. Việc tăng cường mối quan hệ hợp tác song phương trong lĩnh vực KH&CN cần tiếp tục được duy trì và phát triển.
Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho biết thêm, tháng 2/2017, Chính phủ đã phê duyệt Hiệp định hợp tác về KH&CN giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ CHLB Đức đã được ký kết ngày 25/11/2015 tại Berlin. Trong thời gian tới, Bộ KH&CN sẽ phối hợp với BMBF cùng trao đổi, xây dựng kế hoạch triển khai hiệp định với kỳ vọng qua đó thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực KH&CN.
Tại sự kiện, các nhà khoa học Đức và Việt Nam chia sẻ, thảo luận những dự án hợp tác song phương ở các lĩnh vực như công nghệ nước, phát triển đô thị, kinh tế sinh học, nghiên cứu sinh học. Điển hình như các dự án Công nghệ thích ứng bảo vệ bền vững Nước và Tài nguyên đất ở ĐBSCL; Cơ sở hạ tầng, Quản lý môi trường và tài nguyên bền vững tại các đô thị lớn năng động; Bệnh Melioidosis (nhiễm khuẩn) ở Việt Nam: Làm sáng tỏ những gánh nặng thực sự... Ngoài ra, những cơ hội nhận tài trợ của Việt Nam và Đức cho hợp tác song phương về KH&CN cũng được đưa ra bàn thảo để có thể phối hợp thực hiện trong thời gian tới.