Đó là nhận định chung của các chuyên gia tại hội thảo “An ninh mạng: Kinh nghiệm quốc tế và điều chỉnh chính sách tại Việt Nam” diễn ra chiều 23/3 tại Viện nghiên cứu và phát triển truyền thông (IPS).
Các thành viên tham dự tọa đàm (từ trái qua): ông Hoàng Tư Giang, ông Nguyễn Sĩ Dũng, ông Eric Miller và ông
Thomas Doughtery. Ảnh: Hải Đăng
Theo ông Thomas Dougherty, Cố vấn Pháp lý về Tội phạm mạng, phụ trách Đông Nam Á và Thái Bình Dương tại Đại sứ quán Mỹ ở Kuala Lumpur, Malaysia, đối với hoạt động bảo vệ an ninh và xử lý tội phạm mạng, cần phải ưu tiên hàng đầu cho hợp tác quốc tế.
Ông phân tích, sự phát triển bùng nổ của không gian mạng đã xóa mờ khoảng cách về biên giới giữa các quốc gia, tạo điều kiện cho các loại hình tội phạm mạng phát triển mạnh. Không những vậy, tội phạm mạng cũng thường có xu hướng lợi dụng các kẽ hở do sự khác biệt giữa khung pháp lý của các quốc gia để thực hiện hành vi phạm tội. Đôi khi, nếu chỉ dừng lại ở việc truy tố, xét xử từng cá nhân riêng lẻ thì vẫn chưa thể xử lý tận gốc những nguy cơ về an ninh mạng có thể xảy ra.
Bên cạnh đó, việc lưu trữ các bằng chứng số và dấu vết trên mạng đòi hỏi phải có sự chia sẻ thông tin từ các cá nhân, khối doanh nghiệp và cả nhiều quốc gia khác, do vậy “chúng ta cần hợp tác quốc tế để chia sẻ thông tin”, ông Thomas Dougherty nhấn mạnh.
Cùng quan điểm với ông Thomas, ông Eric Miller - Chủ tịch kiêm sáng lập viên Tập đoàn tư vấn Rideau Potomac Strategy, bày tỏ lo ngại trước thực tế chưa có Công ước quốc tế nào về bảo vệ an ninh trên mạng. Nhìn chung, các chiến lược quốc gia cũng chỉ phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và trình độ phát triển của từng quốc gia, trong khi để đảm bảo an ninh mạng và xử lý tội phạm mạng toàn cầu thì cả thế giới cần xây dựng những tiêu chuẩn chung và đồng bộ để thống nhất cùng hành động.
Rạch ròi lợi ích doanh nghiệp và cá nhân
Bàn về quy định yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet như Google, Faceobok phải đặt máy chủ tại Việt Nam trong Dự thảo Luật An ninh mạng đang trình Quốc hội, TS Nguyễn Sĩ Dũng - nguyên Phó Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ, nhận định, đây là “quy định mang tính áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính nhiều hơn, và có thể gây nên những ảnh hưởng [theo hướng tiêu cực] đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường Việt Nam”.
Ông cũng chỉ ra một đặc điểm thường thấy trong công tác quản trị hành chính ở Việt Nam là thiên về xu hướng bảo vệ lợi ích công hay lợi ích quốc gia, mà ít coi trọng đến quyền riêng tư cá nhân.
Là chuyên gia chính sách và chiến lược địa chính trị, ông Miller cũng cho biết, chính sách an ninh mạng của Mỹ thường chú trọng cân bằng giữa hiệu quả quản lý của Chính phủ với lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, trong khi châu Âu lại thiên về tối đa hóa quyền lợi và sự tự do của người sử dụng mạng, bằng cách can thiệp mạnh và siết chặt các tiêu chuẩn về an ninh mạng đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ.
Theo ông, nếu muốn xây dựng được một chiến lược toàn diện về an ninh mạng thì Việt Nam cần xác định rõ mục tiêu ngay từ thời điểm ban đầu và chú ý đến việc quốc tế hóa các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ và ứng dụng mạng, phân định rạch ròi giữa lợi ích riêng tư và công cộng.
Theo tiasang.com.vn