Năm 2018, Việt Nam có 10 nghiên cứu KHXH&NV được công bố trên các tạp chí có hệ số tác động cao.
Ngày 20-06-2019 vừa qua, Clarivate Analytics đã công bố hệ số tác động (HSTĐ) Journal Impact Factor (JIF) 2018 thông qua báo cáo Journal Citation Reports (JCR) 2019. Báo cáo JCR 2019 năm nay có tổng số 11.877 tạp chí, trong đó, có 283 tạp chí mới và 138 tạp chí cho phép truy cập miễn phí. 64% số tạp chí có JIF tăng so với báo cáo năm 2018.
Bài viết này trình bày một số thống kê về khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam (KHXH&NV) dựa trên dữ liệu JIF mới được công bố.
Đầu tiên, cần khẳng định rằng việc đánh giá chất lượng của các nghiên cứu khoa học chỉ dựa trên JIF và Citescore là không phù hợp. Hệ số tác động như JIF và CiteScore được xây dựng dựa trên giả định rằng một tạp chí khoa học sẽ có uy tín cao, phạm vi tác động lớn khi các bài báo xuất bản ở đó được trích dẫn nhiều lần trong các bài báo khác của cùng hoặc khác tạp chí, vì vậy không hoàn toàn phản ánh chất lượng. Vì thế, thống kê trong bài viết này chỉ được đưa ra trên cơ sở cung cấp thông tin tham khảo.
Qua hình 1, dễ dàng nhận thấy một tỷ trọng lớn các công bố quốc tế của Việt Nam tập trung vào các ấn phẩm có mức JIF<3. Tuy nhiên, khoảng JIF 3-5 cũng có một con số tương đối các nghiên cứu. Từ mức JIF≥5, số lượng các công bố giảm, chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số các công bố trên các ấn phẩm có JIF.
Hình 1. Phân bố tổng thể các công bố quốc tế của Việt Nam trên các tạp chí ISI đã có JIF năm 2018
Thống kê, có thể chưa đầy đủ, cho thấy, năm 2018, Việt Nam có 10 nghiên cứu KHXH&NV được công bố trên các tạp chí có JIF cao, tức là ≥5. Các nghiên cứu này, thuộc về các cơ quan như Viện
Triết học, Viện hàn lâm KHXH Việt Nam; Viện Nghiên cứu Phát triển Xã
hội, Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam; Vietnam Panorama
Media Monitoring; ĐH Quốc gia Hà Nội; ĐH Bách khoa Hà Nội; ĐH Quốc gia
TPHCM; ĐH Nông Lâm TPHCM; ĐH Cần Thơ; ĐH Phú Xuân; ĐH Tây Nguyên; Đại
học Phenikaa.
Trong số đó, bài quan điểm về chi phí khoa học, đầu tư và làm khoa học hiệu quả tại các nền kinh tế đang phát triển được TS. Vương Quân Hoàng (Trung tâm Nghiên cứu Xã hội Liên ngành – ISR, trường Đại học Phenikaa, Hà Nội) công bố trên Nature Human Behaviour có JIF cao nhất trong năm 2018, ở mức 10.575.
Khoa
Kinh tế, Đại học Tây Nguyên cũng xuất hiện ấn tượng với bài phân tích hiệu quả sinh thái của sản phẩm cà phê được chứng nhận bền vững tại Việt Nam trên tạp chí
Journal of Cleaner Production có JIF 6.395.
Trong số 25 bài của tác giả Việt được công bố trên các ấn phẩm có JIF cao nhất (khoảng từ 4.253 đến 10.575) năm 2018, xét theo từng ngành, có khá nhiều sản phẩm khoa học được đăng trên các tạp chí thuộc lĩnh vực môi trường/bền vững (11).
Lĩnh vực quản trị, bao gồm cả quản trị kinh doanh, du lịch, lẫn môi trường cũng có 8 nghiên cứu.
Lĩnh vực y xã hội có các công bố trên Journal of Clinical Medicine [5.688], International Journal of Drug Policy [4.528], JMIR mHealth and uHealth [4.301].
Ngành kinh tế cũng có các bài viết chất lượng trên các tạp chí Journal of Business Venturing [6.395], Journal of Peasant Studies [4.754], Ecological Economics [4.281] và Land Degradation and Development [4.275]. Sự phát triển của khoa học xã hội, thể hiện qua các công bố quốc tế, hiện nay dựa rất nhiều vào năng suất của ngành kinh tế. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học trong ngành kinh tế có sự cạnh tranh rất lớn và để có thể bước chân vào các tạp chí với JIF cao trong lĩnh vực này không phải là một nhiệm vụ dễ dàng.
10 công bố quốc tế của các tác giả KHXH&NV Việt Nam trong năm 2018 trên các ấn phẩm có JIF≥5
Tên
nghiên cứu
|
Tác
giả
|
Ấn
phẩm
|
JIF
|
The
(ir)rational consideration of the cost of science in transition economies
|
Vuong
Quan Hoang
|
Nature
Human Behaviour
|
10.575
|
Eco-efficiency
analysis of sustainability-certified coffee production in Vietnam
|
Ho
Quoc Thong; Hoang Viet Ngu; Clevo Wilson; Nguyen Trung Thanh
|
Journal
of Cleaner Production
|
6.395
|
Institutional
quality and market selection in the transition to market economy
|
Tran
Thu Hien
|
Journal
of Business Venturing
|
6.333
|
Scenario-based
planning for tourism development using system dynamic modelling: A case study
of Cat Ba Island, Vietnam
|
Thanh
Mai; Carl Smith
|
Tourism
Management
|
6.012
|
An
open database of productivity in Vietnam's social sciences and humanities for
public use
|
Vuong
Quan Hoang; La Viet Phuong; Vuong Thu Trang; Ho Manh Toan; Nguyen To Hong
Kong; Nguyen To Viet Ha; Pham Hung Hiep; Ho Manh Tung
|
Scientific
Data
|
5.929
|
The
Dark Side of Female HIV Patient Care: Sexual and Reproductive Health Risks in
Pre- and Post-Clinical Treatments
|
Khuat
Thu Hong; Do Thu Trang; Nguyen Thi Van Anh; Vu Xuan Thai; Nguyen Thi Phuong
Thao; Tran Kien; Ho Manh Tung; Nguyen To Hong Kong; Vuong Thu Trang; La Viet
Phuong; Vuong Quan Hoang
|
Journal
of Clinical Medicine
|
5.688
|
Decreased
use of pesticides for increased yields of rice and fish-options for
sustainable food production in the Mekong Delta
|
Hakan
Berg; Nguyen Thanh Tam
|
Science
of the Total Environment
|
5.589
|
The
legal aspects of Ecosystem Services in agricultural land pricing, some
implications from a case study in Vietnam's Mekong Delta
|
Ho
Huu Loc; Irvine Kim Neil; Nguyen Thi Hong Diep; Nguyen Thi Kim Quyen; Nguyen
Ngoc Tue; Yoshihisa Shimizu
|
Ecosystem
Services
|
5.572
|
Socio-geographic
indicators to evaluate landscape Cultural Ecosystem Services: A case of
Mekong Delta, Vietnam
|
Ho
Huu Loc; Thomas J. Ballatore; Irvine Kim Neil; Nguyen Thi Hong Diep; Truong
Thi Cam Tien; Yoshihisa Shimizu
|
Ecosystem
Services
|
5.572
|
Constraints
to the uptake of solar home systems in Ho Chi Minh City and some proposals
for improvement
|
Bob
Baulch; Do Thuy Duong; Le Thai Ha
|
Renewable
Energy
|
5.439
|
Nghiên cứu khoa học tại Việt Nam nói chung và KHXH&NV nói riêng đang trong giai đoạn đầu hội nhập với thế giới. Vấn đề tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế về xuất bản các sản phẩm khoa học đã được Nhà nước cũng như các cơ quan nghiên cứu quan tâm. Điều này được thể hiện qua các quy định, tiêu chí về đánh giá và xếp loại chất lượng công việc cũng như xét duyệt học vị và chức danh trong lĩnh vực học thuật và nghiên cứu khoa học. Trong đó, bên cạnh các quy định về số lượng công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế, một số yêu cầu cụ thể về chất lượng cũng đã bước đầu được đưa vào quy định như chỉ mục và xếp hạng của tạp chí. Thống kê mang tính chất tham khảo về JIF của các công bố KHXH&NV tại Việt Nam cho thấy các tín hiệu khả quan, mặc dù còn trong giai đoạn sơ khởi, về sự quan tâm đối với các yếu tố quốc tế về chất lượng trong nghiên cứu khoa học của Việt Nam.
Hệ số tác động Journal Impact Factor (JIF) ra đời
cùng với hệ thống chỉ mục khoa học Web of Science. Hệ số này tính toán
tác động của một tạp chí trong một năm (a) dựa trên số lượng trích dẫn
có được trong năm (a), rồi chia cho số bài đã công bố trong hai năm
trước đó (a-1 và a-2).
Trong một thời gian dài, hệ số JIF giữ vị
trí số một về đánh giá khoa học cho đến tận khi Scopus ra mắt CiteScore
vào năm 2016. Vì sự quen thuộc của JIF nên mỗi khi nhắc đến "hệ số tác
động" thì luôn hàm ý là JIF, mặc dù cả JIF lẫn CiteScore đều là mang
tính chất tương tự.
|