Những phân tích chính xác về tỉ lệ tử vong chỉ có thể thực hiện được ở các quốc gia có thu nhập cao với hệ thống đăng ký khai sinh và tử vong phát triển; các nước nghèo hơn rất dễ bị bỏ lại phía sau.

Một tỷ lệ nhỏ các trường hợp tử vong là gián tiếp - kết quả của các tác động của đại dịch, chứ không phải do bản thân virus SARS-CoV-2. Một số bệnh viện báo cáo rằng những người mắc bệnh ung thư và các bệnh mãn tính đang bỏ qua các cuộc kiểm tra sức khỏe định kỳ, khiến họ gặp nguy hiểm tính mạng.

Theo một báo cáo từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), số lượt đến các khoa cấp cứu ở Mỹ đã giảm hơn 40% trong những ngày đầu của đại dịch, cho thấy nhiều người không muốn nhập viện. Và ngay cả khi họ đến viện thì các bệnh viện cũng ở trong tình trạng quá tải nghiêm trọng.Maimuna Majumder, nhà dịch tễ học tính toán tại Trường Y Harvard ở Boston, Massachusetts, nói: “Bạn chết vì căn bệnh khác, nhưng lý do bạn chết vì căn bệnh khác là vì hệ thống y tế để chăm sóc bạn không còn đủ mạnh.”

Dữ liệu sơ bộ từ CDC cung cấp cái nhìn sơ lược về những ca tử vong gián tiếp này: vào tháng 4, các trường hợp tử vong do bệnh tiểu đường được ghi nhận ở Mỹ cao hơn 20–45% so với mức trung bình 5 năm; tử vong do thiếu máu cơ tim cao hơn bình thường từ 6% đến 29%.

Một lễ an táng ở Manaus, Brazil. Cho đến nay, nước này đã ghi nhận hơn 110.000 ca tử vong do COVID-19.

Tuy nhiên, một điều đáng chú ý là phong tỏa và thay đổi hành vi như đeo khẩu trang và rửa tay có thể ngăn ngừa tử vong do các nguyên nhân khác - đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm, chẳng hạn như cúm. Và với số lượng lớn người ở nhà trên toàn thế giới, tử vong do tai nạn giao thông và một số loại bạo lực giữa các cá nhân có thể cũng giảm. Những yếu tố này có thể "che đi" phần nào số người chết gia tăng do COVID-19 gây ra.

Hệ thống giám sát toàn cầu FluNet phát hiện ra rằng mùa cúm năm nay đã ngắn đi một tháng, có thể do việc phong tỏa nghiêm ngặt và tăng cường thực hành vệ sinh.

Một nhóm nghiên cứu do Debbie Bradshaw đứng đầu tại Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Nam Phi ở Cape Town, cho biết, vào cuối tháng 3, với biện pháp phong tỏa được áp dụng, số ca tử vong phi tự nhiên đã giảm xuống còn một nửa so với con số dự kiến thông thường. Và khi tình trạng phong tỏa bắt đầu được dỡ bỏ vào cuối tháng 5, con số tử vong phi tự nhiên đã quay trở lại mức dự kiến của chúng.

Các nhà nhân khẩu học có thể sẽ không bao giờ biết chắc chắn con số tử vong cuối cùng của đại dịch, Noymer nói. Một khi đại dịch lắng xuống, việc xác định ba loại tử vong sẽ mất vài tháng hoặc thậm chí nhiều năm. Ông nói: “Chúng ta thậm chí chưa giải quyết được có bao nhiêu người chết trong trận dịch cúm năm 1918 sau hơn 100 năm phân tích các con số."

Cải thiện hệ thống trong tương lai

Trong tương lai, với dữ liệu đầy đủ về nguyên nhân tử vong, các nhà nghiên cứu sẽ có thể phân tích tác động của việc phong tỏa và các biện pháp can thiệp khác bằng cách xem xét mức độ tử vong trực tiếp và gián tiếp giữa các quốc gia. Nhưng tạm thời chưa thể làm điều đó ngay bây giờ, theoAndrew Noymer - nhà nhân khẩu học ở ĐH California, Irvine, khi đại dịch đang hoành hành và chưa có con số cuối cùng. Cố gắng thống kê ngay bây giờ "giống như cố gắng dự đoán tổng lượng mưa ở giữa một cơn bão," Noymer nói.

Ngay cả sau cơn bão, những phân tích này sẽ chỉ có thể thực hiện được ở các quốc gia có thu nhập cao với hệ thống đăng ký khai sinh và tử vong (CRVS) phát triển.

Irina Dincu, chuyên gia chương trình CRVS tại Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế ở Ottawa, cho biết ở các nước thu nhập thấp và trung bình, việc đếm số ca tử vong khó hơn nhiều. “Trên toàn thế giới, khoảng 50% số ca tử vong xảy ra trong một năm được ghi nhận," Dincu nói. "50% còn lại thì không. Chúng vô hình."

Cố vấn CRVS Gloria Mathenge có thể nghĩ ra rất nhiều lý do tại sao những cái chết này lại "vô hình". Trong vai trò của mình tại Cộng đồng Thái Bình Dương, một tổ chức phát triển quốc tế ở Nouméa, New Caledonia, Mathenge giúp củng cố hệ thống dữ liệu ở các quốc đảo Thái Bình Dương như Kiribati và Tonga. Mặc dù tình hình đang được cải thiện, trung bình khoảng 20% số người chết trong khu vực không được ghi nhận.

Nhiều hệ thống hiện có bắt nguồn từ quá khứ thuộc địa, kết quả là, Mathenge nói, chúng không phản ánh các chuẩn mực văn hóa và xã hội đương thời - chẳng hạn như thực tế là nhiều người ở các nước thu nhập thấp và trung bình không chết trong bệnh viện. Vì vậy, bên cạnh việc bỏ sót tử vong do COVID-19, các nước này cũng không có cách nào đáng tin cậy để thiết lập đường cơ sở để từ đó tính toán lượng tử vong dư ra so với dự kiến để ước tính tác động của đại dịch.

Theo Stéphane Helleringer, nhà nhân khẩu học tại Đại học New York ở Abu Dhabi, để ước tính số người chết ở những nước này, các nhà nhân khẩu học sẽ phải dựa vào các phương pháp kém chính xác hơn như khảo sát từng nhà. Nhưng kiểu khảo sát này không diễn ra thường xuyên, Helleringer nói. "Vào thời điểm chúng tôi làm xong thì dữ liệu đã lỗi thời rồi."

Đối với một số nhà nhân khẩu học, việc ai đó chết vì COVID-19 hay chết do không được chăm sóc vì hệ thống y tế quá tải không quan trọng - theo một cách nào đó, tất cả các trường hợp tử vong đều có thể là do đại dịch.

Cũng có các nhà nghiên cứu rất muốn tách biệt những trường hợp tử vong do virus corona gây ra với những trường hợp do hoàn cảnh, để họ có thể xây dựng bức tranh chính xác về mức độ nguy hiểm thực sự của virus này.

Nhưng hiện tại có rất ít thời gian để thực hiện những phân tích như vậy, vì đại dịch đã làm quá tải hệ thống khai tử. Các chính trị gia, giới truyền thông và công chúng đang yêu cầu số liệu thống kê hằng ngày hoặc hằng tuần, mà thường những số liệu này nếu muốn chính xác sẽ mất hằng tháng để tổng hợp. “Chúng ta sẽ hiểu rõ nhất về tỷ lệ tử vong khi nhìn lại sự việc," Noymer nói, vì cần thời gian và công sức để biên soạn và phân tích giấy chứng tử. “Nhưng bỗng nhiên tất cả mọi người đều muốn biết những số liệu này theo thời gian thực.”

Nguồn: