Dưới lòng đất, các khối đất, đá có khả năng hấp thụ và giữ nhiệt tốt, cho nên nhiệt độ có thể ổn định hơn nhiều mà không cần tới điều hòa không khí hoặc hệ thống sưởi tốn nhiều năng lượng.
Đây không chỉ là một khả năng viễn tưởng, mà con người và các loài vật đã sống thoải mái dưới lòng đất trong suốt tiến trình lịch sử. Song, liệu đây có phải giải pháp khả thi để đối phó với khủng hoảng khí hậu đang dần hình thành?
Người da trắng trong hốTại thị trấn mỏ đá opal Coober Pedy ở Nam Úc, 60% dân số đã tận dụng hiệu ứng này và sống dưới lòng đất. Cái tên Coober Pedy đến từ “kupa piti”, tiếng bản địa nghĩa là “người da trắng trong hố”.
Trong suốt các mùa hè nóng rực lên tới 52°C và mùa đông băng giá xuống 2°C, những căn nhà hầm của người dân nơi đây luôn ổn định ở nhiệt độ 23°C. Nhờ nơi cư trú tự nhiên bằng đá mà nhiều người dân có thể sống sót qua mùa hè khắc nghiệt mà không cần điều hòa nhiệt độ.
Phía trên mặt đất, cái nóng như đổ lửa có thể khiến chim rơi xuống và đồ điện tử cháy hỏng. Nhưng ở dưới, nhiều người dân lại có nơi trú ngụ khá xa xỉ, có phòng khách rộng rãi, bể bơi, muốn có bao nhiêu không gian cũng được, chỉ cần đào tiếp thôi.
Quy định đưa ra là nhà phải cách mặt đất ít nhất 2,5m để tránh sập nóc, tuy vậy, đôi khi việc này vẫn xảy ra. Vào những năm 1960-1970, người dân đào hố bằng cuốc chim và thuốc nổ. Ngày nay, họ dùng các công cụ đào chuyên nghiệp, nhưng đôi khi vẫn phải dùng dụng cụ bằng tay. Việc cắt những tảng đá lớn khá dễ dàng vì sa thạch và bột kết mềm đến mức có thể cào bằng dao nhíp.
Thi thoảng, việc sửa nhà còn giúp người dân kiếm được khoản hời: một người đàn ông tìm thấy tảng đá opal trị giá 1,5 triệu đô Úc (980.000 USD) khi lắp vòi hoa sen. Thi thoảng lại có người chẳng may đào sang nhà hàng xóm. Nhưng nhìn chung, việc sống dưới lòng đất mang lại nhiều sự riêng tư.
Thành phố DerinkuyuNăm 1963, một người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ không rõ tên đã dùng búa tạ để phá bức tường dưới tầng hầm khi sửa sang lại ngôi nhà ở vùng Cappadocia. Khi thấy những con gà cứ biến mất sau lỗ hổng, ông ta đã tìm hiểu và phát hiện một hệ thống đường hầm lớn dưới lòng đất. Thành phố mất tích Derinkuyu đã được tìm thấy như vậy đấy.
Được xây dựng từ năm 2000 TCN, mạng lưới đường hầm 18 tầng này đạt đến độ sâu 76m, với 15.000 lỗ thông hơi và soi sáng một mê cung gồm các nhà thờ, chuồng ngựa, nhà kho và nhà ở có sức chứa được tới 20.000 người.
Các chuyên gia cho rằng Derinkuyu được sử dụng liên tục trong hàng nghìn năm làm nơi trú ẩn thời chiến. Nhưng nó bất ngờ bị bỏ hoang vào những năm 1920 sau sự kiện diệt chủng và cưỡng bức trục xuất người Cơ đốc chính thống Hy Lạp khỏi đất nước này.
Trong khi nhiệt độ ngoài trời ở Cappadocia dao động từ 0°C vào mùa đông và 30°C vào mùa hè, thì nhiệt độ của thành phố ngầm luôn mát mẻ, ổn định ở 13°C. Đây là nhiệt độ lí tưởng để bảo quản hoa quả và rau củ. Ngày nay, một số đường hầm được dùng làm kho chứa các thùng lê, khoai tây, chanh, cam, táo, cải bắp và súp lơ.
Giống như ở Coober Pedy, đá ở đây mềm và đất có độ ẩm thấp, giúp cho việc xây dựng đường hầm trở nên dễ dàng.
Nơi trú ẩn hay địa ngục?Tuy hầu hết mọi người đều sẵn lòng sống dưới lòng đất trong những quãng thời gian ngắn, nhưng người ta khó mà chịu được khi phải sống dưới lòng đất vĩnh viễn.
Trong nhiều nền văn hóa, thế giới dưới lòng đất cũng đồng nghĩa với cái chết. Và việc ở trong một không gian hạn hẹp dưới lòng đất có thể kích hoạt chứng sợ không gian kín và nỗi sợ ngạt thở hay sập hầm.
Theo Will Hunt, tác giả cuốn “Dưới lòng đất: Lịch sử nhân loại về những thế giới dưới chân ta”, cơ thể con người không phù hợp về mặt sinh học và sinh lý cho cuộc sống dưới lòng đất. Những người sống dưới lòng đất quá lâu mà không có ánh sáng ban ngày có thể sẽ ngủ liên tục tới 30 tiếng. Nhịp sinh học bị rối loạn có thể dẫn tới một loạt vấn đề sức khỏe.
Ngoài ra, còn có một nguy hiểm tiềm ẩn khác là lũ quét. Và điều này càng trở nên đáng lo ngại khi biến đổi khí hậu có khả năng gây ra nhiều hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, ví dụ như các trận bão.
Trong các đường hầm phía dưới thành phố Las Vegas, Mỹ có khoảng 1.500 người sinh sống. Từng có vài lần những người vô gia cư đã chết đuối trong đó. Những đường hầm này được xây dựng để lưu thông nước mưa và có thể ngập đầy nước trong vòng vài phút, khiến cho người sống trong đó không kịp di tản.
Việc xây dựng dưới lòng đất thường đòi hỏi vật liệu nặng và đắt hơn để có thể chịu được áp lực dưới lòng đất. Những áp lực này cần phải được đo đạc bằng các khảo sát địa chất cẩn thận trước khi bắt đầu đào.
Những gì đang diễn ra trên mặt đất cũng ảnh hưởng tới nhiệt độ dưới lòng đất. Một nghiên cứu về khu thương mại Chicago Loop, Mỹ cho thấy nhiệt độ đã tăng lên nhiều kể từ những năm 1950, khi ngày càng nhiều cơ sở hạ tầng sinh nhiệt được xây dựng tại khu vực đó, như các trạm đỗ xe, tàu và tầng hầm. Nhiệt độ tăng có thể làm đất giãn ra tới 12mm, khiến cho cấu trúc các tòa nhà dần hư hại.
Để môi trường dưới lòng đất có thể thành nơi được mọi người chấp nhận sinh sống lâu dài, chúng phải an toàn và chắc chắn, có ánh sáng tự nhiên, thông thoáng, và cho cảm giác kết nối với thế giới bên trên.
Thành phố ngầm RÉSO dài 30km của Montreal, Canada là hiện thân của ý tưởng này. Khu phức hợp này kết nối các tòa nhà để người dân có thể tránh khỏi nhiệt độ âm bên ngoài. Không gian bao gồm tập hợp các văn phòng, cửa hàng, khách sạn và trường học, kết nối hài hòa với môi trường bên trên.
Biến đổi khí hậu đã khiến cho một số nơi ở Iran, Pakistan và Ấn Độ có những đợt nóng nguy hiểm. Nếu hành tinh tiếp tục tăng nhiệt độ, có lẽ chúng ta nên xem xét việc xây các tòa nhà dưới lòng đất thay vì các tòa nhà chọc trời chăng?