Nếu hình dung cả nhân loại như một cơ thể, thì phát minh ra lửa đã đưa cơ thể đó từ hoang dã lên văn minh, máy hơi nước đã bổ sung vào cơ thể đó hệ thống cơ bắp, còn máy tính cho nó bộ óc. Đánh giá này đã gián tiếp ghi nhận vai trò của mật mã trong việc thúc đẩy một trong những phát minh vĩ đại nhất của con người.
Mật mã thường được nhắc tới như là mặt trận hoạt động thầm lặng
của con người. Tuy nhiên, trong lịch sử mật mã đã xảy ra không ít biến cố sinh
tử, như sự kiện Mỹ tuyên chiến trong Chiến tranh thế giới thứ I sau khi bức điện
Zimmermann bị lộ, vụ Midway khi Mỹ đã thám được mật mã của Nhật Bản và giành được
chiến thắng giòn giã trên thực địa, vụ đánh đứtđường giao thông sinh tử của
Nhật và diệt các tàu ngầm Đức…. Vang dội nhất là sự kiện Alan Turing giải được
máy mã Enigma, được đánh giá là lý do rút ngắn Chiến tranh thế giới thứ II được
1 năm. Các chuyên gia còn cho rằng, chiếc máy Turing Bombe do ông và đồng nghiệp
chế tạo để giải máy mã Enigma của Đức chính là thế hệ máy tính đầu tiên trên thế
giới. Ngày nay, thuật toán Shor giải bài toán phân tích số cũng được coi là đột
phá thúc đẩy nghiên cứu và chế tạo máy tính lượng tử.
Đôi nét về mật mã
Trong số các phương thức để bảo vệ thông tin thì mật mã đóng
vai trò vô cùng quan trọng. Mật mã là kỹ thuật biến đổi thông tin dưới dạng rõ
(đọc hiểu) thành thông tin dưới dạng mã mà bất kì ai không có thẩm quyền đều
không thể đọc hiểu thông tin đó.
Lịch sử cho thấy, con người đã biết sử dụng các phương pháp
mật mã từ rất sớm. Các tài liệu của Ấn Độ, Ai Cập và La Mã cổ đại là minh chứng
cho thấy mật mã đã được sử dụng từ rất lâu, với các phương thức đa dạng và ở
nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí để mã hoá các đơn thuốc chữa bệnh. Trong những
năm tháng “tăm tối” của thời kỳ Trung cổ, thực tiễn hoạt động mã hoá được giấu
kín, thậm chí các nhà mật mã còn bị thủ tiêu sau một thời gian làm việc. Đến thời
kỳ Phục Hưng, mật mã lại được hồi sinh. Có thể nói nếu như nghệ thuật, thi ca
được phát triển nở rộ nhờ cuộc sống lao động sản xuất và chính nhu cầu nội tại
của đời sống tinh thần con người, thì mật mã được thúc đẩy bởi các cuộc đấu
tranh chính trị, quân sự và ngoại giao diễn ra không ngừng.
Trong thế kỷ XV - XVI, mật mã đã được sử dụng rộng rãi tại
Châu Âu, nơi diễn ra sôi nổi các hoạt động chính trị, quân sự và ngoại giao.
Chính những cuộc đấu tranh sôi động này đã sinh ra những thiên tài toán học và
mã thám như Viete (Pháp), Bazier,Babbage, Kasiski (Đức). Đến thế kỷ XVIII
- XIX thì mật mã đã trở thành một ngành công nghiệp thực thụ khi mỗi quốc gia
Châu Âu đều thành lập các các ban mật mã và các phòng mã thám, thường được gọi
là “phòng đen”. Thế kỷ XX được đánh dấu bằng hai cuộc chiến tranh thế giới với
hàng trăm cuộc xung đột vũ trang và cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ,
kéo theo sự phát triển vượt bậc của mật mã. Cũng chính trong thế kỷ này, mật mã
đã trở thành ngành khoa học thực sự nhờ phát minh của nhà toán học kiêm kỹ sư lỗi
lạc người Mỹ C. Shannon. Ông đã vận dụng khái niệm độ bất định (entropy) trong
vật lý học để xây dựng khái niệm toán học về độ mật và lý thuyết các hệ mật.
Ông cũng là người đã đặt nền móng cho khoa học về thông tin.
Sự phát triển vượt bậc của khoa học tính toán những năm 50
và 60 của thế kỷ XX đã tạo tiền đề cho sự ra đời mật mã hiện đại. Đặc biệt, cuộc
cách mạng tin học và sự ra đời của mạng truyền thông máy tính vào nửa cuối thế
kỷ XX đã thúc đẩy sự ra đời của mật mã khoá công khai. Nhờ mật mã khoá công
khai mà mật mã đã xâm nhập sâu rộng vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội, là yếu tố
không thể thiếu để đảm bảo an toàn cho các hoạt động giao dịch điện tử nói
chung và thương mại điện tử nói riêng trên phạm vi toàn thế giới.
Máy mã Enigma
Enigma là máy mã đã đi vào lịch sử. Việc thám mã Enigma
thành công đã trở thành một trong những sự kiện vang dội nhất của Chiến tranh
thế giới thứ IIvà theo đánh giá của các chuyên gia, sự kiện này đã rút ngắn
chiến tranh được một năm.
Enigma được một kỹ sư người Đức là Arthur Scherbius thiết kế
phát minh đầu tiên vào năm 1918. Những phiên bản đầu tiên được sử dụng trong
thương mại vào năm 1923. Đến năm 1926, Hải quân Đức là lĩnh vực vũ trang đầu
tiên sử dụng Enigma. Năm 1928, quân đội Đức sử dụng Enigma phiên bản G, sau đổi
thành Enigma I vào năm 1930. Enigma I chỉ được sử dụng trong các tổ chức vũ
trang và các cơ quan chính phủ trước và trong Chiến tranh thế giới thứ II. Nhìn
chung, thời điểm trước Chiến tranh thế giới thứ II, máy mã Enigma đã được triển
khai rộng rãi trong các lực lượng vũ trang và các cơ quan chính phủ Đức và còn
được các nước Đồng minh là Ý và Nhật sử dụng.
Enigma là máy cơ điện, có cấu tạo từ bốn bộ phận chính: Bàn
phím, bảng các phích cắm (plugboard), bảng đèn (lampboard) và hệ thống các
rotor. Hệ thống rotor là phần trung tâm của Enigma, có số lượng rotor từ 3 trở
lên và được đánh số bằng chữ La mã (I, II, II, IV, V,…) để phân biệt lẫn nhau.
Mỗi rotor là một đĩa tròn dẹt có bánh răng, trên mỗi mặt có một vòng 26 chữ cái
với các điểm tiếp xúc tạo thành mạng lưới truyền tín hiệu điện. Mỗi điểm tiếp
xúc của mặt này được nối với một điểm tiếp xúc của mặt kia theo một quy tắc nhất
định. Mỗi rotor có một kiểu nối khác nhau, phiên bản dùng trong thương mại khác
với phiên bản dùng trong quốc phòng. Các rotor được sắp xếp theo một thứ tự và
được bố trí sao cho các điểm tiếp xúc ở mặt “đầu vào” của chiếc này được nối với
mặt “đầu ra” của chiếc tiếp theo, đầu racủa chiếc cuối được nối với mặt đầu
vào của chiếc đầu. Khi tín hiệu đầu ra từ rotor cuối trở lại rotor đầu tiên,
thì tín hiệu rơi vào điểm tiếp xúc nào, đèn báo tương ứng với điểm tiếp xúc đó
sẽ bật sáng và đó chính là bản mã của ký tự đầu vào. Khoá mã của Enigma được
thay đổi hàng ngày, do đó người ta sử dụng một tài liệu hỗ trợ được gọi là
codebook (sách mã hóa), trong đó ghi danh mục khoá được thiết lập hàng ngày.
Trong quân sự, mạng liên lạc mật Enigma được chia thành các mạng con khác nhau
và mỗi mạng sử dụng một phiên bản riêng của Enigma.
Công việc hàng ngày của các nhân viênsử dụng Enigma
như sau: Đầu tiên, thiết lập trạng thái của máy theo chỉ dẫn của codebook để
đưa máy vào trạng thái hoạt động. Khi có bức điện cần mã hoá được chuyển từ người
chỉ huy, các nhân viên thiết lập trạng thái ban đầu cho các rotor (trạng thái
này có thể theo dõi trên ấy sổ của máy), sau đó lần lượt ấn các chữ cái của bức
điện. Mỗi chữ cái trong bức điện sẽ được mã hoá bởikhoá mật mã, từng
chữ cái của bản mã sẽ hiện lên trên bảng đèn. Nhân viên chỉ cần ghi lại bản mã
và truyền đi qua thiết bị thông tin. Vì hệ mật mã sử dụng trong Enigma là đối xứng
nên để giải điện, nhân viên tại đầu nhận chỉ cần thực hiện ngược lại quy trình
trên. Khoá mật mã của Enigma được cấu tạo từ bốn thành phần:
- Lựa chọn các rotor và thứ tự của chúng (ví dụ, trong tập
các rotor, chọn các rotor I, III, IV và sắp đặt chúng từ trái sang phải theo thứ
tự III, IV, I).
- Trạng thái ban đầu của các rotor (do nhân viên chọn, thay
đổi theo từng bức điện).
- Các cài đặt vòng (ring settings) của rotor – trạng thái của
các vòng chữ cái liên quan đến kết nối rotor.
- Trạng thái phích cắm – các kết nối của các phích cắm trên
bảng phích cắm.
Cuộc chiến thám mã Enigma và sự ra đời của máy tính điện
tử thế hệ đầu tiên
Khoá mã là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo an toàn cho một
máy mã. Đối với Enigma, con số khóa mã có thể có lên đến 26!26!25!13!. Đây là số
khổng lồ với hơn 90 chữ số không tận cùng. Bởi vậy, nếu một nhà mã thám có
trong tay một siêu máy tính có khả năng kiểm tra một tỷ khả năng trong một
giây, thì phải mất một vài tỷ năm mới tính hết mọi khả năng của khóa Enigma. Điều
đó có nghĩa là việc rà soát lại toàn bộ không gian khoá là việc không thể thực
hiện được ngay cả bằng các phương tiện tính toán của ngày nay.
Từ khi Enigma được đưa vào khu vực quân sự, ngay lập tức nó
trở thành đối tượng của các các cơ quan tình báo thông tin, trước hết là của
Anh, Pháp và Mỹ, tuy nhiên việc thám mã Enigma vẫn chưa thành công. Vào thời
gian này, cơ quan mật mã của Ba Lan cũng vào cuộc. Song phải đợi đến tháng
9/1932 khi chàng sinh viên 27 tuổi Marian Rejewski cùng hai người bạn từ đại học
tổng hợp Poznan là Henryk Zygalski và Jerzy Rozycki - những người anh hùng
tương lai trong công cuộc chinh phục enigma - gia nhập Ban mật mã, thì việc
thám mã Enigma của Ba Lan mới bước vào giai đoạn mới.
Tháng 12/1932, Ban mật mã Ba Lan đã nhận được từ đại uý
Gustav Bertrand của cơ quan tình báo quân sự Pháp một số tài liệu, trong đó đặc
biệt có hai trang sử dụng khoá Enigma do cơ quan tình báo quân sự Pháp lấy được
từ phía Đức. Những trang khoá này đã cho phép giảm được một số lượng lớn ẩn số
trong các phương trình mà Rejewski thiết lập để giải Enigma. Để hiểu được ý
nghĩa của sự kiện này, cần lưu ý rằng trong mã thám, nếu số lượng khoá mã lớn
thì rất ít khi các nhà mã thám sử dụng lối tấn công vét cạn, tức lần lượt thử tất
cả các khoá mã. Đối với Enigma, cách làm này lại càng không thể thực hiện được.
Vì vậy, các nhà mã thám thường tìm mọi thông tin liên quan, nhất là những sơ suất
trong khi sử dụng máy, những bối cảnh của bức điện và kể cả phương pháp đánh cắp
để lấy được các thông tin bên lề, đây là những dữ liệu quý giá để giảm lượng
tính toán đến mức có thể thực hiện được. Đối với việc thám mã Enigma cũng không
là ngoại lệ. Sơ suất đầu tiên và tự nhiên nhất là người Đức luôn sử dụng cuốn sổ
ghi chép bản rõ và bản mã của chúng, cũng như khoá đã sử dụng. Khi cuốn sổ này
lọt vào tay đối phương, đây là tư liệu lý tưởng để dựa vào đó khôi phục lại
toàn bộ hoặc từng phần khoá mã. Marian Rejewski đã thực hiện một tấn công quan
trọng nhất trong lịch sử mật mã bằng cách sử dụng lý thuyết nhóm sơ cấp để giải
các kết nối và cài đặt bên trong rotor của Enigma. Sau khi Rejewski tái tạo lại
cấu trúc của máy Enigma, người Ba Lan đã giải mã được một phần rất đáng kể các
cuộc liên lạc qua Enigma được người Đức thực hiện trong tháng 12/1938. Người Ba
Lan còn tiến xa hơn khi chế tạo được các thiết bị dò khoá là Cyclometer,
Zygalski sheets và đặc biệt là máy dò khóa “Polish Bombe” do Rejewski chế tạo.
Những thiết bị này đã tạo hỗ trợ rất lớn trong việc giải được một số lượng điện
mật nhất định của Đức.
Tháng 6/1939, ba tháng trước khi Đức Quốc xã chính thức tấn
công Ba Lan, hiểu được xu hướng chính trị ở Châu Âu, Bộ Tổng tham mưu Ba Lan
quyết định chia sẻ những thành tựu thám mã Enigma với Đồng minh. Hai bộ máy mã
Enigma được chuyển tới Paris, cơ quan tình báo quân sự Pháp giữ lại một chiếc,
chiếc thứ hai gửi cho cơ quan tình báo Anh. Tại Anh, vào thời kỳ đó đã có máy
tính cơ học nhưng còn rất thô sơ và không có khả năng sử dụng để thám các loại
máy mã có độ phức tạp cao như Enigma. Các phương pháp thám mã cổ điển do những
nhà ngôn ngữ tiến hành cũng không giải quyết được vấn đề. Cơ quan tình báo
thông tin của Anh và các nước Đồng minh hiểu rất rõ điều đó, nên họ đã bắt đầu
huy động các nhà toán học vào cuộc. Tại trường mật mã của Anh, nơi trước đó
công việc mã thám chủ yếu do các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đảm nhiệm thì nay được
bổ sung các nhà toán học làm việc trong lĩnh vực lý thuyết số. Nhà toán học
Alan Turing được chỉ định đứng đầu nhóm giải mã Enigma, lúc đó ông mới 27 tuổi
và đã có những công trình lý thuyết nổi tiếng về khoa học tính toán.
Sau khi được người Ba Lan chuyển giao các kỹ thuật thám mã
Enigma, trong đó có máy dò khoá Polish Bombe, các nhà mã thám Anh đã kết hợp
nhiều giải pháp lại với nhau, nên trong những năm đầu của thập niên1940,
cơ quan mã thám của Anh đã thu được nhiều thông tin hết sức quan trọng của Đức.
Các bức điện giải mã này có mật danh là “Ultra” và được đích thân Thủ tướng
Churchill trực tiếp nghiên cứu. Ông đã gọi những bức điện này là “những quả trứng
vàng”. Nền tảng trong kỹ thuật được Turing và các nhà mã thám Anh sử dụng là
các Crib - thuật ngữ được họ sử dụng để chỉ một đoạn điện rõ đã biết hoặc được
dự đoán ở tại một vị trí nào đó trong bản điện mã. Nguồn của Crib là các bản đã
được giải mã trước đó, bao gồm những biệt ngữ quân sự Đức và những câu nói hoặc
đoạn văn khuôn mẫu; các bản ghi chép tỉ mỉ phân tích các phiên liên lạc trên từng
tuyến liên lạc như tần số vụ tuyến, thời gian chặn bắt các bức điện….
Tuy vậy, thành tích của những quả trứng vàng thật ra còn
khiêm tốn khi chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số các bức điện chặn bắt được và chỉ
tập trung vào một số mặt trận. Hơn nữa, phía Đức cũng thường xuyên cải tiến máy
Enigma cũng như phương thức sử dụng, gây nhiều khó khăn cho cơ quan mã thám của
Anh. Nước Anh lại tiếp tục chịu nhiều thiệt hại do không giải được các bức điện
mật. Vào giữa năm 1942, dựa trên ý tưởng của Polish Bombe, Turing đã nghiên cứu
ra sơ đồ máy điện từ có khả năng tái lập vị trí cài đặt của các rotor. Máy có
chức năng mô phỏng tác động của các rotor bằng các trống quay. Các trống quay
này rà soát mọi vị trí có thể của các rotor chỉ trong vài giây, nhanh hơn nhiều
so với Polish Bombe. Với sự hỗ trợ của máy này, người Anh đã giải được nhiều bức
điện quan trọng.
Thuật toán Turing dò tìm vị trí rotor của máy Enigma đòi hỏi
phải tua đi tua lại nhiều lần bản điện rõ và điện mã. Nó được thực hiện nhờ một
rơle để lưu các dữ liệu và một tập lệnh lặp. Thiết bị này có những yếu tố của
máy tính điện tử ngày nay. Đến cuối năm 1943, Turing lại tiếp tục cải tiến
Polish Bombe thành chiếc máy có tên là Colus hay Turing Bombe. Đó là chiếc máy
tự động lập trình thực hiện các phép tính số học và logic trên hệ nhị phân. Có
thể nói, với Colus, cơ quan thám mã Anh đã được trang bị phương tiện tính toán
hiện đại nhất thời bấy giờ và đó là chiếc máy tính điện tử đầu tiên trên thế giới.
Trên thực tế, trước chiến tranh, Turing đã có ý tưởng về một chiếc máy tính tưởng
tượng, mà ngày nay giới học thuật được biết đến với cái tên là máy Turing.
Nhưng việc tham gia giải mã Enigma đã tạo điều kiện cho ông kết hợp ý tưởng này
với thực tế và thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng của của máy tính hiện đại.
Thám mã hệ mật RSA thúc đẩy nghiên cứu và chế tạo máy
tính lượng tử
Ý tưởng chế tạo máy tính lượng tử được đưa ra bởi nhà vật lý
người Mỹ R. P. Feynman và nhà toán học người Nga I. Manin vào đầu những năm 80
của thế kỷ XX, với mục tiêu ban đầu là phục vụ cho việc mô hình hóa các hệ thống
cơ học lượng tử. Vấn đề liệu các thiết bị lượng tử có thể giải được các bài
toán nào đó hiệu quả hơn máy tính cổ điển không, lần đầu tiên được Manin đề cập
trong cuốn “Tính được và không tính được” xuất bản năm 1980 và Feynman trong
bài giảng “Mô hình hóa vật lý trên máy tính - đã hình thành những cơ sở đầu
tiên cho tính toán lượng tử”.
Từ đó, hình thành ba hướng nghiên cứu:hướng thứ nhất
mang tính hàn lâm, trong đó các nhà nghiên cứu cố gắng phát triển lý thuyết
thông tin Shanon sang lĩnh vực tin học lượng tử;hướng thứ hai, làm rõ những
hạn chế mà cơ học lượng tử đặt ra cho các thiết bị lượng tử và hướng thứ ba chỉ
ra tiềm năng, cũng như ưu thế tính toán của máy tính lượng tử. Mặc dù
đâylà những chủ đề khoa học hấp dẫn, tuy nhiên trong suốt thập kỷ 80, trừ
một số thành tựu về lý thuyết thì gần như không đạt được bước tiến nào đáng kể
trong việc trả lời câu hỏi chính: Ưu thế của máy tính lượng tử là gì? Những lớp
bài toán nào mà máy tính lượng tử có thể giải quyết còn máy tính cổ điển thì
không?
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện một số kết
quả theo hướng này: David Deutschи và Richard Jozsa đã chỉ ra một lớp bài toán
đặc thù mà máy tính lượng tử thể hiện tính vượt trội. Một thuật toán khác – thuật
toán Simon đã giải bài toán tìm chu kỳ của hàm số trong thời gian tuyến tính
thay vì thời gian mũ của các thuật tóan cổ điển.
Thuật toán Simon đã làm cơ sở để Shor phát minh ra thuật
toán lượng tử mang tên ông vào năm 1994. Thuật toán Shor giải được bài toán
phân tích số và bài toán logarit rời rạc, nền tảng của mật mã khóa công khai hiện
đại. Đây là một phát minh có tính đột phá thực sự, bởi nó đã chứng minh về
nguyên tắc ưu thế tính toán của máy tính lượng tử và thực sự làm động lực cho
việc chế tạo máy tính lượng tử. Nó còn thúc đẩy các nhà mật mã khẩn trương tìm
kiếm các hệ mật mã có khả năng chống lại máy tính lượng tử.
Nhiều học giả cho rằng, phát minh ra lửa và máy hơi nước và
phát minh máy tính đã tạo thành ba phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử loài người.
Nikita Moiseev – Nhà toán học kiêm học giả Xô Viết lỗi lạc đã giải thích sự vĩ
đại ấy như sau: Nếu hình dung cả nhân loại như một cơ thể, thì phát minh ra lửa
đã đưa cơ thể đó từ hoang dã lên văn minh, máy hơi nước đã bổ sung vào cơ thể
đó hệ thống cơ bắp, còn máy tính cho nó bộ óc. Đánh giá này đã gián tiếp ghi nhận
vai trò của mật mã trong việc thúc đẩy một trong những phát minh vĩ đại nhất của
con người.