Sự ra đời của tiền xu
Trong thời cổ đại, người dân không mua hay bán bằng tiền. Thay vào đó, họ trao đổi các đồ vật hoặc sản phẩm cho người khác để nhận lại những gì họ muốn hoặc cần. Việc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ nói trên được gọi là đổi chác (barter). Nhưng sự phát triển của xã hội đòi hỏi phải có một phương thức giao dịch ổn định và hiệu quả hơn. Nhiều nền văn hóa trên thế giới cuối cùng đã phát triển việc sử dụng tiền kim loại – loại tiền có giá trị phụ thuộc vào giá trị của vật liệu làm ra nó.
Những đồng tiền xu đầu tiên được sản xuất từ đồng và sau đó là sắt, bởi vì các vật liệu này khá cứng nên có thể dùng để chế tạo vũ khí. Tiền xu rất thuận tiện, do người sử dụng có thể đếm chúng thay vì phải cân khối lượng. Tiền xu là một phương tiện trao đổi đáng tin cậy và hiệu quả. Nó đã thúc đẩy đáng kể sự mua bán hàng hóa trong thế giới cổ đại.
Loại tiền xu đầu tiên được sử dụng tại vùng Lưỡng Hà vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên và nó được gọi là “siglos” hoặc “shekel”. Shekel là một đơn vị tiền và đơn vị khối lượng cổ xưa dùng để xác định khối lượng của lúa mạch hoặc khối lượng tương đương giữa các vật liệu, chẳng hạn như đồng thiếc và đồng nguyên chất.
Vai trò quan trọng của tiền trong xã hội dân sự thậm chí đã được đề cập trong bộ luật Hammurabi, do vị vua thứ sáu của vương quốcBabylon ban hành năm 1760 trước Công nguyên. Người Babylon và những cư dân sống trong các thành bang lân cận [thành phố tự trị, độc lập và có chủ quyền như một quốc gia] sau đó đã phát triển hệ thống kinh tế sớm nhất với đặc điểm gần giống ngày nay, chẳng hạn như các điều khoản về nợ, hợp đồng pháp lý, luật pháp liên quan đến hoạt động kinh doanh và tài sản tư nhân.
Tiền là phương tiện trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa. Ảnh: Saga
Năm 700 trước Công nguyên, Pheidon – vua của thành bang Hy Lạp cổ đạiArgos – là người cai trị đầu tiên đã chính thức thiết lập tiêu chuẩn về khối lượng và tiền bạc. Ông cho đúc tiền xu bằng kim loại quý bạc thay vì sắt trong đền thờ nữ thần trí tuệ và chiến tranh Athena tại Aegina. Mặt trước của những đồng tiền xu là hình ảnh một con rùa biển. Loại tiền này đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi như một phương tiện trao đổi quốc tế cho đến lúc xảy ra cuộc Chiến tranh Peloponnesian, khi đồng drachma của người dân Athen thay thế chúng.
Theo nhà sử học Herodotus,những đồng tiền xu vàng đầu tiên được đúc tại vương quốc Lydia ở Tiểu Á [mộtbán đảo củachâu Á thuộcThổ Nhĩ Kỳ ngày nay] dưới thời vua Croesus vào khoảng năm 700 trước Công nguyên. Nhưng mãi đến năm 390 trước Công nguyên thì vua Philip II của vương quốc Macedonia mới cho lưu hành các đồng xu vàng đầu tiên. Tiền xu của người Lydia có hình ảnh một con sư tử ở phía trên.
Tiền giấy và các loại tiền hiện đại khác
Tiền giấy hoặc giấy bạc lần đầu tiên xuất hiện tại Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 600 đến năm 1455, chủ yếu lưu hành trong thời nhà Tống. Những tờ giấy bạc gọi là Jiaozi đã được sử dụng từ thế kỷ 7 sau Công nguyên.
Tại châu Âu, giấy bạc ngân hàng (banknote) đầu tiên được ngân hàng Stockholms Banco ở Thụy Điển phát hành năm 1661. Giấy bạc ngân hànglàhình thức của tiền,do một ngân hàng phát hành, về bản chất làbằng chứng chứng minh rằng ngân hàng nợ người có giấy bạc một lượng tiền đúng bằng giá trị ghi trên giấy bạc. Giấy bạc ngân hàng được sử dụng song hành cùng với tiền xu nhưng nó đã không hoạt động tốt và phải ngừng lại, bởi vì các ngân hàng thiếu tiền xu để trả tiền cho các tờ giấy bạc ngân hàng. Trong thập niên 1690, Khu Thuộc Địa Vịnh Massachusetts tại Mỹ in tiền giấy và ở đây việc sử dụng tiền giấy trở nên phổ biến hơn.
Sau một thời gian dài phát triển, tiền đã xuất hiện với hình thức tiền đại diện (representative money). Điều này xảy ra bởi vì các thương gia và ngân hàng buôn bán vàng, bạc, bắt đầu phát hành giấy biên nhận cho người gửi, có thể quy đổi thành giá trị tiền mặt. Cuối cùng những hóa đơn được chấp nhận rộng rãi như một phương tiện thanh toán và bắt đầu được sử dụng như tiền. Hệ thống tiền tệ nói trên – nơi mà các phương tiện trao đổi là giấy có thể chuyển đổi thành một lượng vàng cố định, được định trước – thay thế việc sử dụng tiền xu vàng ở châu Âu giữa thế kỷ 17 và 19.
Vào đầu thế kỷ 20, gần như tất cả các quốc gia đều áp dụng hệ thống này, giấy chứng nhận được phát hành và có một lượng vàng xác định trước để chuộc lại.
Sau cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai và Hội nghị Bretton Woods, hầu hết các quốc gia đã thông qua tiền pháp định (fiat money), có giá trị xác định theo đồng đô la Mỹ (USD). Đến lượt mình, đồng đồng đô la Mỹ được xác định bằng lượng vàng dự trữ. Năm 1971, Chính phủ Mỹ đã chấm dứt chuyển đổi đồng đô la thành vàng ở một tỷ giá cố định, khiến nhiều quốc gia khác bắt chước theo và phần lớn số tiền trên toàn thế giới ngừng được đảm bảo bởi dự trữ vàng.
Sự phát triển gần đây nhất trong cách chúng ta sử dụng tiền là tiền điện tử, một loại tiền kỹ thuật số áp dụng phương thức mã hóa để đảm bảo các giao dịch và kiểm soát việc tạo ra các đơn vị tiền mới. Tiền điện tử đầu tiên là bitcoin, nhưng có rất nhiều loại tiền điện tử khác được tạo ra theo cách thức tương tự. Tương lai con người có chuyển sang dùng tiền điện tử hoàn toàn hay không thì chúng ta vẫn còn phải chờ xem.
Không có định nghĩa nào thích hợp hơn về nguồn gốc của tiền so với câu nói của Aristotle: “Khi người dân của một quốc gia trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào người dân của những quốc gia khác, họ đã nhập khẩu những gì họ cần và xuất khẩu những gì họ có quá nhiều, tiền nhất thiết phải được đưa vào sử dụng.”