Những bộ phim kinh điển đã đưa Frankenstein, Ma cà rồng, Xác ướp,… chạm đúng vào nỗi sợ và sang chấn tâm lý xã hội.
Trong một đêm mưa gió bão bùng, nhà bác học điên đang cố gắng làm hồi sinh con quái vật vô tri mà ông ta tạo ra bằng cách ghép nối các bộ phận của tử thi khai quật lên. Sau khi bị chích điện cao thế, nó bỗng cử động những ngón tay dài, xương xẩu rồi giơ hẳn một cánh tay lên. “Nó còn sống! Nó còn sống! Nó còn sống!”, bác sĩ la lớn. Đó là phân cảnh đáng nhớ trong bộ phim do hãng Universal Pictures chuyển thể từ tiểu thuyết kinh dị Frankenstein (hay The Modern Prometheus, tạm dịch: Prometheus hiện đại) của Mary Shelley (xuất bản lần đầu năm 1818), với sự tham gia của Vladimir Karloff trong vai quái vật. Tác phẩm đã trở thành bom tấn tại các phòng vé khi đánh đúng thị hiếu của công chúng đối với thể loại điện ảnh kinh dị, và mở đường cho Universal phát hành một loạt các phim quái vật mang tính biểu tượng về sau, bao gồm The Mummy (Xác ướp), Dracula (Ma cà rồng), Creature from the Back Lagoon (Sinh vật đến từ Đầm Đen), …
Cho dù nổi lên từ đầm lầy, nằm trong quan tài đá Ai Cập hay được chắp vá giống như Frankenstein, … thì tất cả những con quái vật này đều là sản phẩm bắt nguồn từ sự say mê (và đôi khi là cả sợ hãi) của cộng đồng đối với khoa học. Không đơn thuần chỉ là công việc sáng tạo của đội ngũ thiết kế, hóa trang, những hiểu biết (có thể vẫn còn hạn chế) về các loài lưỡng cư, thuật ướp xác, giải phẫu … đã được vay mượn để đưa vào nỗi kinh hoàng.
Shelley chỉ mới 18 tuổi khi viết Frankenstein trong lúc đi nghỉ hè ở hồ Geneva. Là người đặc biệt yêu thích khoa học, bà thường tham dự các bài giảng để cập nhật những xu hướng và nghiên cứu mới, trong đó có lĩnh vực điện sinh lý học (electrophysiology) còn khá mới mẻ. Bà đã rất chú ý đến công trình của Luigi Galvani – nhà khoa học người Ý thế kỷ 18, với những thí nghiệm ban đầu cho thấy dòng điện có thể khiến chân ếch (đã chết) co giật, rồi lấy đó làm cảm hứng cho bác sĩ Frankenstein. Cũng trong thời kỳ này, các nhà khoa học bắt đầu tìm hiểu về bản chất của kỹ thuật hồi sức – đôi khi mang người tưởng đã chết đuối trở lại nhờ thao tác thổi khí vào khí quản và ép chặt bụng của họ. Chính mẹ đẻ của Shelly đã từng được cấp cứu như vậy khi nhảy xuống từ cầu Putney trên sông Thames, hai năm trước khi bà ra đời.
Hơn một thế kỷ sau, Universal đã chuyển thể cuốn tiểu thuyết của bà thành phim Frankenstein, rồi sau đó lại tiếp tục ra mắt một con quái vật kinh điển khác: The Mummy (năm 1932) – cũng với sự tham gia của Boris Karloff trong vai thầy tu Imhotep tinh thông thuật ướp xác; Phim kể về một linh hồn bị trừng phạt bằng cách chôn sống và vô tình được giải thoát để trở lại trần thế gây náo loạn. Trước đó, năm 1922, nhóm nghiên cứu do nhà khảo cổ học người Anh Howard Carter dẫn đầu đã mở lăng mộ của vua Tutankhamun nổi tiếng, nơi vẫn luôn là điều bí ẩn trong suốt 3.000 năm. Sự kiện đã kích thích trí tò mò, tưởng tượng của hàng triệu người trên khắp thế giới, đồng thời khơi dậy niềm đam mê đối với Ai Cập cổ đại – kéo dài hàng thập kỷ sau lần đầu phát hành The Mummy.
“Quái vật luôn là sản phẩm trộn lẫn của nỗi sợ vô thức và có ý thức” – Leo Braudy, tác giả cuốn Haunted: On Ghosts, Witches, Vampires, Zombies and Other Monsters of the Natural and Supernatural Worlds (Ám ảnh: Ma, Phù thủy, Ma cà rồng, Xác ướp cùng những quái vật khác của thế giới Tự nhiên và Siêu nhiên) nhận định. Chẳng hạn như nỗi sợ về vết cắn của ma cà rồng trong phim Dracula (phát hành năm 1931) đã được thêu dệt dựa trên cuốn tiểu thuyết kinh dị về thời trung cổ của Bram Stoker (xuất bản năm 1897) cùng vở kịch Dracula (trình diễn năm 1924) của Hamilton Deane và John L. Balderston. Truyền thuyết về ma cà rồng đã tồn tại hàng trăm năm trước khi Stoker xuất bản cuốn tiểu thuyết, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng, chính những dịch bệnh chết người vào giữa thế kỷ 19 như tả và lao đã reo rắc niềm cảm hứng và lan truyền các huyền thoại về ma cà rồng. “Khi không có khoa học, thuyết ma cà rồng rất dễ được chấp nhận. Nếu một ai đó mắc bệnh lao rồi lây sang các thành viên khác trong gia đình, họ sẽ đổ lỗi cho ma cà rồng thay vì vi khuẩn” – Sarah Crawford, nhà quản lý lâu năm tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Los Angeles, nhận định.
Trong phim Creature From the Black Lagoon (phát hành năm 1954), nhà thiết kế Milicent Patrick đã nghiên cứu rất nhiều về các loài động vật và sinh vật biển thời tiền sử để định hình tầm nhìn cho nhân vật “Gill-Man”. Bà đặc biệt thích thú trước những hình ảnh minh họa về các loài bò sát và lưỡng cư sống vào khoảng 400 triệu năm trước trên Trái đất. Đạo diễn Jack Arnold đã lấy cảm hứng cho Gill-Man từ câu chuyện về loài cá vây tay (coelacanth) vốn tuyệt chủng từ lâu và được cho là tổ tiên của các động vật trên cạn, với những cái vây khác thường (trông giống như chân tay) giúp nó có thể bò từ đại dương lên mặt đất. Mối liên hệ giữa biển và các loài động vật trên cạn, cùng với câu chuyện mà nhà sản xuất nghe được tại một bữa tiệc tối về một sinh vật nửa người nửa cá sống ở sông Amazon, … tất cả đã được Patrick đưa vào tạo hình.
Khoa học đã không chỉ truyền cảm hứng cho các nhân vật trên màn hình, mà còn dẫn đến những thử nghiệm và phát minh mang tính kỹ thuật trong lĩnh vực làm phim. Trong lúc dàn dựng phòng thí nghiệm của bác sĩ Frankenstein, nhà thiết kế Kenneth Strickfaden – người từng có nhiều năm làm thợ điện – đã nghĩ ra các kỹ thuật mô phỏng hiện tượng sét hòn và phóng điện. Còn nghệ sĩ Jack Pierce – người đứng đầu bộ phận hóa trang của Universal – đã phải mất 8 giờ với Karloff trong The Mummy, sử dụng một loại hỗn hợp làm từ đất sét (fuller’s earth) và hơn 150 feet (hơn 50m) băng gạc.
Chính khoa học đằng sau những con quái vật mang tính biểu tượng của Hollywood đã khiến các bộ phim của thời kỳ hoàng kim này càng trở nên “kinh hoàng” hơn. Về mặt nhận thức, có lẽ phần lớn người xem đều biết những sinh vật đó không hề tồn tại. Nhưng sự hồi hộp, phấn khích khi theo dõi những kịch tính trên màn ảnh đã khiến họ không khỏi nghĩ ngợi, rằng Nếu chúng thật sự tồn tại thì sao? “Các bộ phim kinh dị đã liên tục được sản xuất, nhiều hơn bất cứ thể loại này khác. Bởi vì chúng (quái vật và những thứ kinh dị), ở một góc độ nào đó, đã sinh ra từ trong chính bản thân của chúng ta, và như vậy thì không bao giờ có thể thất bại” – Braudy nói.