Một phóng sự trên Nature mới đây điểm qua các thay đổi chính trong chính sách khoa học ở các nước Đông Nam á, trong đó có việc các nước trong khu vực cần hợp lực trong các chương trình nghiên cứu dài hạn và tăng cường hợp tác quốc tế.

Nhờ nhà hóa sinh Pimchai Chaiyen, người dân ở bản Maha phot (tỉnh Nan, miền Bắc Thái Lan) có thể tận dụng được thức ăn thừa để làm khí sinh học và phân bón. Vào năm 2019, Chaiyen và cộng sự từ Viện KH&CN Vidyasirimedhi (VISTEC) ở Rayong, Thái Lan, đã lắp đặt các bồn nhựa lớn chứa hệ thống phân hủy kỵ khí tại các trường học, trung tâm cộng đồng và tu viện và hướng dẫn người dân sử dụng.

Pimchai Chaiyen (ngoài cùng bên trái) hướng dẫn dân làng Nan cách biến tạo khí đốt từ thực phẩm dư thừa.

“Chúng tôi muốn tạo ra một công cụ hữu ích để hỗ trợ nền kinh tế tuần hoàn. Nếu không xử lý rác thải thực phẩm đúng cách, hầu hết sẽ chỉ được đưa vào bãi rác, tạo ra khí mê-tan và carbon dioxide và góp phần vào sự nóng lên toàn cầu”. Chaiyen đã giành được Giải thưởng Nhà khoa học xuất sắc của Thái Lan năm 2015, danh hiệu khoa học cao nhất của nước này, và nơi cô làm việc cũng là ví dụ cho thấy sự phát triển của nghiên cứu khoa học Thái Lan.

Năm 2020, điểm “Share” (đếm sự tham gia của tác giả vào bài báo) trong Nature Index của Thái Lan là 45,56, tuy còn kém xa Trung Quốc (14.450,20 điểm), nhưng Thái Lan đứng thứ ba, sau Trung Quốc và Việt Nam, trong danh sách các quốc gia đang lên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APAC) do Nature Index xếp hạng. Và VISTEC, được thành lập vào năm 2015, đứng thứ 12 trong khu vực trong số các đơn vị nghiên cứu về hóa học đang lên (không tính các tổ chức của Trung Quốc).

Các nước khác như Indonesia, Việt Nam, thậm chí có xuất phát điểm còn thấp hơn, gần đây cũng xếp thứ tư và thứ năm trong danh sách các quốc gia APAC đang lên của Nature Index. Còn Malaysia, với hơn 2.200 nhà nghiên cứu trên một triệu dân - chỉ đứng sau Singapore, quốc gia có 6.730 nhà nghiên cứu trên một triệu dân - có sản lượng xuất bản trung bình trên Web of Science cao thứ ba ở Nam và Đông Nam Á trong năm 2014–2018. Báo cáo Viện Thông tin Khoa học (ISI) của Clarivate cũng cho thấy sản lượng nghiên cứu của Malaysia, Thái Lan và Việt Nam đã tăng gần gấp đôi trong thập kỷ qua.

Những tiến bộ này một phần do nhiều trường đại học ở Đông Nam Á xoay trục từ giảng dạy sang nghiên cứu, nhằm cải thiện thứ hạng quốc tế của họ để thu hút thêm nguồn tài trợ và thu hút sinh viên. Các tổ chức nghiên cứu ngày càng nhận ra vai trò của R&D trong việc thúc đẩy phát triển quốc gia, và các chính phủ cũng thành lập các tổ chức mới, ban hành hàng loạt chính sách mới nhắm mục tiêu cụ thể vào việc thúc đẩy nghiên cứu. Ví dụ, Việt Nam ra mắt Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia vào năm 2008; Malaysia công bố Kế hoạch Chiến lược Giáo dục Đại học Quốc gia 10 năm vào năm 2015; và Thái Lan thành lập Bộ Giáo dục Đại học, Khoa học, Nghiên cứu và Đổi mới vào năm 2019 - hợp nhất các chức năng được phân chia giữa một số cơ quan chính phủ trước đây. Thái Lan, Việt Nam và Indonesia còn đưa ra quy định lấy công bố quốc tế làm đầu ra cho nghiên cứu sinh tiến sĩ hoặc xét phong giáo sư.

Kết quả là, số lượng nghiên cứu đã tăng lên đáng kể, tất nhiên không phải lúc nào chất lượng nghiên cứu cũng ở mức tốt. Numpo Mahayotsanun, thành viên điều hành Học viện các nhà khoa học trẻ Thái Lan nhận xét, “dường như chúng tôi đang bị thúc bởi số lượng chứ không phải chất lượng, và xuất bản để được công nhận thành tích thay vì tạo ra tác động thực sự.” Ông cũng cho rằng, các chương trình nghị sự quốc gia và lộ trình khoa học mới “tốt về mặt lý thuyết”, còn việc thực hiện chúng lại là một vấn đề khác.

Dài hạn và kiên nhẫn

Mặt khác, cho đến giờ, thủ tục hành chính vẫn đè nặng lên các nhà khoa học. Là một kỹ sư cơ khí từ Đại học Khon Kaen ở Đông Bắc Thái Lan, Mahayotsanun hợp tác chặt chẽ với các công ty ô tô, vũ trụ và hàng không để giúp thiết kế quy trình và sản phẩm nhưng “nếu rời trường đại học để đi gặp một công ty, tôi phải xin phép sếp. Và sếp của tôi sẽ phải yêu cầu cấp trên của anh ấy quyết định”, Mahayotsanun nói. “Tôi đã là giáo sư 11 năm nay, và mọi việc từ xưa giờ vẫn vậy”. Đến khi được chấp thuận thì có thể đã quá muộn, ngành công nghiệp sẽ không chờ đợi các thủ tục hành chính lâu như vậy.

Chaiyen đồng ý. Hiện tại, hầu hết các chương trình nghiên cứu của Thái Lan không đi hết chặng đường từ nghiên cứu cơ bản trong phòng thí nghiệm cho đến khâu thương mại hóa, cô nói. “Chính phủ cần kiên nhẫn và kiên trì trong việc hỗ trợ cả phát triển khoa học cơ bản và công nghệ dài hạn. Họ cần thực hiện một chính sách dài hạn để nuôi dưỡng con người, môi trường giáo dục và nghiên cứu,” Chaiyen nói. “Nhưng đôi khi họ thay đổi chính sách quá nhanh”.

Một lý do ảnh hưởng tới đầu tư dài hạn cho khoa học ở Thái Lan là do chính sách thay đổi liên tục, thậm chí là chính phủ thay đổi liên tục trong 20 năm qua. “Mỗi khi một chính phủ mới vào cuộc, họ có chương trình nghị sự của riêng mình. Họ xáo trộn rất nhiều thứ, do đó sẽ có một thời gian dài tạm ngừng các hoạt động sản xuất khoa học và công nghệ,” Mahayotsanun nói. Trong khi khoa học cần sự hỗ trợ lâu dài và liên tục.

Còn ở Indonesia thì có những quy định làm ảnh hưởng tới môi trường khoa học. Ví dụ, năm 2019 Indonesia thông qua đạo luật buộc tội các nhà nghiên cứu nếu họ vi phạm giấy phép thị thực hay bày tỏ ‘quan điểm bất lợi’. Berry Juliandi, giáo sư sinh học tại Đại học Nông nghiệp Bogor và cựu tổng thư ký của Học viện Khoa học trẻ Indonesia cho biết cách hiểu về ‘quan điểm bất lợi’ rất linh hoạt: có thể bao gồm cả việc đưa ra cảnh báo động đất hoặc sóng thần, gây ra “hỗn loạn trong xã hội”. Hệ quả là, nhiều nhà khoa học quốc tế đã không còn quan tâm đến việc nghiên cứu ở đây vì sợ sẽ bị kết tội hình sự.

Chưa kể Indonesia luôn có mức đầu tư cho R&D hạn chế khiến quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này không phát huy hết tiềm năng khoa học của mình.

Những năm gần đây, công bố có hợp tác quốc tế của các nước trong khu vực tăng cao. Ví dụ: phân tích của ISI cho thấy trung bình số lần được trích dẫn của các bài báo của Malaysia là 1,06, cao hơn mức trung bình của thế giới. Nếu loại bỏ tất cả các bài báo có đồng tác giả là học giả quốc tế khỏi thống kê, thì con số này giảm xuống còn 0,76.

Hợp tác quốc tế gia tăng không những vì nghiên cứu tầm thế giới vượt quá chi trả của nhiều nhà khoa học mà việc hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu trong nước và giữa các quốc gia là chìa khóa để phát triển và tiến bộ. “Tôi không nghĩ Thái Lan có thể trở thành cường quốc [khoa học] nếu không có sự hỗ trợ của các nước láng giềng vì chúng ta gắn bó với nhau. Tôi nghĩ cách để trở nên mạnh mẽ là đi cùng nhau”, Mahayotsanun nói. “Mỗi quốc gia đều có bối cảnh, chương trình nghị sự và các vấn đề riêng, nhưng miễn là chúng ta bắt tay cùng phát triển, đó là chìa khóa.”

Nguồn: nature.com