Đông y gọi chung các loại cà là giã tử, ái qua, nuy qua, tên khoa học là Solanum milogena L. thuộc họ cà (Solanaceae). Theo Đông y, cà có vị ngọt, tính hàn (có tài liệu ghi là cực hàn và có độc). Cà có tác dụng hoạt lợi (nhuận trường), lợi tiểu, trị thũng...
Cà là loại cây trồng hoặc mọc hoang ở những vùng đất ẩm, mỗi loại cà cũng có hình dáng, màu và kích cỡ khác nhau. Chẳng hạn cà pháo quả tròn bé màu trắng hay vàng, rất nhiều quả và có khi cho thu hoạch quanh năm. Cà nghệ có cùi mỏng màu xanh hoặc trắng ăn giòn không kém cà pháo. Cà tứ thời quả bé, tròn có màu sắc thay đổi, cho quả quanh năm. Cà xoan quả hình quả xoan, màu xanh. Loại cà bát quả to như cái bát có màu trắng hay màu xanh. Cà dái dê có màu tím hoặc xanh hay trắng.
Đông y gọi chung các loại cà là giã tử, ái qua, nuy qua, tên khoa học là Solanum milogena L.
thuộc họ cà (Solanaceae). Theo Đông y, cà có vị ngọt, tính hàn (có tài liệu ghi là cực hàn và có
độc). Sách Trung dược học cho biết, cà tác dụng hoạt lợi (nhuận trường), lợi tiểu, trị thũng, thấp
độc, trừ hòn cục trong bụng (chưng hà), chứng lao truyền, ôn bệnh trong 4 mùa (phong, hàn, thử,
thấp, táo, hỏa). Tán huyết tiêm viêm, chỉ thống... Còn trong Thực liệu có nói, cà có tác dụng chữa
ngũ tạng lao tổn. Trong sách Thực kinh viết: cà có tác dụng làm đầy da thịt, ích khí lực, chữa cước
khí... cùng nhiều chứng bệnh.
Y học hiện đại cũng xác nhận rằng, cà tím cũng giàu dinh dưỡng. Người ta đã phân tích thành phần
dinh dưỡng có trong 100 g cà: nước chiếm 92%, đạm 1,3%, chất béo 0,2%, đường 0,5% cùng các chất
khoáng như lân 15 mg, magnesi 12 mg, calcium 10 mg, kalium 22 mg, natri 15, 16 mg, lưu huỳnh 15, 16
mg, sắt 0,5 mg, mangan 0,2 mg, kẽm 0,2 mg, đồng 0,1 mg, iod 0,002 mg, các vitamin như caroten (tiền
vitamin A) 0,04 mg, vitamin B1 0,04 mg, vitamin B2 0,35 mg, vitamin C 6 mg, vitamin PP 0,6 mg và
chất nhầy hay cellulose...
Riêng với giống cà tím (cà dái dê) ở phương Tây cũng đã được nhiều công trình nghiên cứu và được
xếp vào nhóm rau quả đứng hàng đầu với hàm lượng vitamin PP cao nhất. Có tài liệu nói, vitamin PP
chứa trong cà tím là 72 g. Người ta còn phát hiện, vitamin E trong cà tím và hàm lượng các chất
khoáng thường cao hơn hẳn các loại rau quả khác. Đặc biệt, ở cà tím còn chứa chất nightshade soda
có tác dụng chống ung thư, ức chế sự tăng sinh của khối u trong bộ máy tiêu hóa. Ngay ở Nhật Bản,
các chuyên gia cũng đã phát hiện thấy trong cà tím có chứa nhiều thành phần hoạt chất có khả năng
ngăn ngừa ung thư, nhất là ung thư dạ dày. Vì vậy, có ý kiến đã khuyên nên sử dụng nước ép cà tím
khi người bệnh đang dùng xạ trị và cả ngay sau khi phẫu thuật ung thư.
Tại Áo, nhóm chuyên gia Trường Đại học Graz đã chứng minh tác dụng khử chất béo của loại cà tím,
được thể hiện rõ khi sử dụng cà tím với các thức ăn động vật. Cà tím còn tác dụng chống ứ đọng
cholesterol và urê huyết nên rất có lợi trong điều trị các bệnh tim mạch, chứng huyết áp cao, béo
phì vì cho năng lượng thấp (ví dụ như cà pháo trong 1 kg chỉ cho 24,4 kcalo hay cà bát là 441
kcalo, cà dái dê 454 kcalo), đái tháo đường, thống phong (gout).
Tại Hoa Kỳ, một tạp chí có đăng tải bài "12 cách giảm cholesterol trong máu" đã xếp ăn cà là biện
pháp hàng đầu. Người ta đều xác nhận rằng, cà tím có tác dụng kích thích tiết mật và tụy khiến khả
năng tiêu hóa được tăng cường, lại giúp nhuận tràng, giải độc, có lợi cho bệnh gan mật. Ngoài ra,
còn có công hiệu lợi tiểu, chống phù nề, đàm thấp, hỗ trợ trong việc điều trị bệnh thận. Trong thực
nghiệm cũng cho thấy, khi động vật được uống nước ép cà tím thì gây động kinh nhân tạo đã không
phát bệnh. Bởi thế, người ta khuyên những người dễ bị kích động tâm thần mỗi khi thấy thần kinh
căng thẳng nên uống 1 ly nhỏ nước ép cà tím.
Trong Hội nghị các nhà gây mê của Hoa Kỳ tại Orlando vào tháng 10.1998 cũng đã thông báo rằng: nếu
người bệnh ăn nhiều cà tím, cà chua, khoai tây, sẽ làm chậm chuyển hóa một số thuốc mê và thuốc
giãn cơ trong phẫu thuật, do các glycoalcaloid của họ cà (Solanaceae) đã gây ức chế các men
acetylcholinesteraza và butylcholinesterase là những men làm giảm hóa thuốc mê.
Như vậy, thật sự cà còn là một vị thuốc hay được sử dụng chữa trị nhiều bệnh từ lâu đời ở nước ta
cũng như nhiều nước trên thế giới.
Dưới đây, xin giới thiệu những phương thuốc trị bệnh từ cà để cùng tham khảo và có thể áp dụng khi
cần:
Chữa phụ nữ huyết hư, da vàng
Lấy quả cà pháo già bổ ra phơi khô trong bóng râm cho đến khô, rồi tán bột mịn, ngày uống 2 lần,
mỗi lần 8 g với rượu hâm nóng. Cần uống liền dài ngày.
Chữa đại, tiểu tiện, đường tiêu hóa ra máu
Lấy quả cà pháo già sao vàng, tán bột mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 8 g hòa với giấm pha
loãng.
Chữa đàm nhiệt, viêm phế quản cấp, táo bón
Lấy cà tím 500 g đem thái dọc, gừng tươi 4 lát, tỏi 3 củ nghiền nhuyễn. Sau trộn với nước tương,
dầu, muối, đường chưng cách thủy. Ăn hết trong ngày. Mỗi ngày ăn một lần, cần ăn 5-7 ngày
liền.
Chữa ho lâu năm không khỏi
Cà pháo tươi 30-60 g, nấu chín cho mật ong vào vừa đủ rồi nấu lại là được. Ngày ăn 2 lần (theo Ẩm
thực phương Đông trị bệnh của Hồng Minh Viễn năm 1998 của Trung Quốc).
Chữa hoàng đản (chứng viêm gan vàng da)
Lấy cà tím thái miếng, trộn lẫn gạo nấu thành cơm ăn trong 5 ngày đến 1 tuần.
Chữa bệnh ngoài da và niêm mạc, bầm máu, lở loét, chảy máu ở lợi, chín mé ở tay, nứt đầu vú, lấy
quả cà pháo đốt thành than rồi tán nhỏ lấy bôi vào chỗ đau.
Chữa chứng đau bụng ở nữ (theo tạp chí Tropical doctor)
Lấy quả cà khô và quả me chín, cả hai thứ lượng bằng nhau. Cho vào 1.000 ml nước (1 lít) rồi đun
sau 30 phút lọc lấy nước chia ra vài lần uống nóng.