Các nhà nghiên cứu bị công khai cáo buộc quấy rối tình dục được trích dẫn ít hơn sau cáo buộc. Tuy nhiên, điều này không đúng đối với các nhà khoa học bị cáo buộc gian lận, khi số trích dẫn của họ không thay đổi sau đó - theo một phân tích mới được công bố trong trên tạp chí PLoS ONE.
Sau phong trào #MeToo vạch trần những kẻ quấy rối tình dục trong ngành công nghiệp Hollywood và các ngành nghề khác, bao gồm cả khoa học, Giulia Maimone - nhà khoa học hành vi tại Đại học California, Los Angeles, muốn biết liệu các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) và khoa học xã hội có tránh xa công trình của những người bị cáo buộc quấy rối tình dục hay không.
Cô và các đồng nghiệp đã so sánh số lượt trích dẫn của 15 nhà nghiên cứu trong ba năm sau khi họ bị cáo buộc công khai về hành vi quấy rối tình dục, với những nhà nghiên cứu bị cáo buộc gian lận dữ liệu và các hành vi gian lận khác, cùng với 142 nhà nghiên cứu không bị cáo buộc hành vi nào. Trong đó, các cáo buộc quấy rối tình dục đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông và những người bị cáo buộc đã được trích dẫn ít nhất 200 lần trong quá trình nghiên cứu từ trước.
Hình minh họa. Nguồn: Getty Images
Họ dự đoán các học giả bị cáo buộc gian lận trong khoa học sẽ phải chịu tổn thất nhiều hơn vì hành vi gian lận này làm dấy lên những nghi ngờ về giá trị công trình khoa học của họ. "Điều đó không hề đúng với những gì chúng tôi tìm thấy," Maimone nói. "Chúng tôi rất ngạc nhiên."
Số lượng trích dẫn của những người bị cáo buộc quấy rối tình dục giảm đi sau khi các cáo buộc được công khai. Tuy nhiên, số trích dẫn của các nhà khoa học bị cáo buộc gian lận vẫn ổn định, mặc dù tỷ lệ công bố bài báo giảm ở cả hai nhóm.
"Thật quý giá khi có một nghiên cứu như thế này để xem xét các thực hành trích dẫn," Anna Bull - nhà xã hội học tại Đại học York, Vương quốc Anh, người nghiên cứu về quấy rối tình dục trong giáo dục đại học, nhận xét. Theo cô, những phát hiện mới từ nghiên cứu có thể là dấu hiệu cho thấy thái độ đối với hành vi quấy rối tình dục trong khoa học đang thay đổi.
Tuy nhiên, cô nói rằng các trường hợp được phân tích có thể chỉ đại diện cho những hình thức quấy rối tình dục nghiêm trọng nhất. "Để mọi thứ được đưa ra công khai [trên các phương tiện truyền thông], chúng phải là những hành vi rất nghiêm trọng," cô nói, lưu ý rằng ở nhiều nơi, bao gồm cả Vương quốc Anh và Liên minh Châu Âu, ít cáo buộc quấy rối tình dục xuất hiện trên truyền thông do các luật về phỉ báng.
Elisabeth Bik - chuyên gia tư vấn về liêm chính học thuật tại California, cho biết mặc dù điều này cho thấy sự không khoan nhượng đối với hành vi quấy rối tình dục trong cộng đồng khoa học, nhưng việc không có sự giảm sút trong trích dẫn đối với hành vi gian lận là điều đáng lo ngại. Tuy nhiên, cô nói rằng trong các trường hợp gian lận khoa học, "thường không rõ ai là người chịu trách nhiệm", và các bài báo cũng có thể được trích dẫn như là ví dụ về hành vi gian lận.
Lý do tại sao các nhà nghiên cứu lại chọn không trích dẫn các đồng nghiệp bị cáo buộc quấy rối tình dục vẫn chưa rõ ràng. Họ có thể đang cố ý trừng phạt những kẻ quấy rối tình dục bằng cách ngừng trích dẫn, hoặc có thể họ muốn bảo vệ danh tiếng của chính mình, Bull nói, hoặc "có thể là cả hai".
Maimone cũng cho biết, các nhà nghiên cứu có thể không nhận ra rằng họ đang trừng phạt những kẻ bị cáo buộc quấy rối tình dục nhiều hơn là những kẻ gian lận khoa học.
Trong nghiên cứu của mình, cô và các đồng nghiệp còn khảo sát 240 nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực STEM và khoa học xã hội, cùng 231 người không thuộc giới học thuật về thái độ của họ đối với quấy rối tình dục và gian lận khoa học.
Ít nhất 90% những người bên ngoài giới học thuật cho biết hành vi quấy rối tình dục là điều ghê tởm hơn gian lận khoa học, và ba phần tư nói rằng nó xứng đáng bị trừng phạt hơn. Tuy nhiên, 85% các học giả tham gia khảo sát cho biết nếu phải chọn, họ sẽ trích dẫn bài báo của người quấy rối tình dục thay vì của kẻ gian lận.
Liệu giá trị khoa học có nên bị loại bỏ nếu một nhà khoa học phạm tội quấy rối tình dục? "Tôi nghĩ đây là một câu hỏi mở," Ivan Oransky - đồng sáng lập trang web Retraction Watch, chuyên theo dõi và báo cáo các trường hợp gian lận khoa học, cho biết. Nếu các nhà nghiên cứu ngừng trích dẫn như một hình phạt thì có thể họ sẽ không đạt được mục tiêu của mình, ông nói. Việc không trích dẫn những kẻ quấy rối tình dục có thể vô tình trừng phạt các đồng nghiệp vô tội, ông nói. Điều này có thể bao gồm cả nạn nhân của hành vi quấy rối tình dục.
Cũng theo Bull, các phát hiện từ nghiên cứu có thể vô tình làm nản lòng những người có ý định báo cáo hành vi quấy rối tình dục. Họ sẽ có nguy cơ bị đổ lỗi cho những gì xảy ra với người bị cáo buộc, cô nói, bởi vậy nạn nhân có thể sẽ ít muốn báo cáo hành vi lạm dụng hơn.
Maimone thừa nhận khả năng này, nhưng cho biết điều đó cũng có thể có tác dụng ngược lại, và khiến mọi người cảm thấy an tâm rằng nếu họ báo cáo hành vi quấy rối tình dục, cộng đồng sẽ ủng hộ họ. "Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mọi người thực sự quan tâm đến hành vi quấy rối tình dục, nghiêm túc xem xét các cáo buộc và lên án những hành vi sai trái như vậy," cô nói.
Nguồn: