Yuriy Valentinovych Knorozov, hay còn gọi là Yuri Knorozov, ra đời ngày 19/11/1922 trong một gia đình trí thức Nga, tại một ngôi làng gần Kharkiv tại Ukraine. Vào năm 1940, khi tròn 17 tuổi, Knorozov rời Kharkiv để tới Moscow và theo học ngành Dân tộc học tại Khoa Lịch sử của Đại học Quốc gia Moscow.

Maya: Yuri Knorozov cùng con mèo Asya. Nguồn: kyivpost.com
Maya: Yuri Knorozov cùng con mèo Asya. Nguồn: kyivpost.com

Thế chiến II và Nghiên cứu Ai Cập học

Có giai thoại kể rằng, từ năm 1943-1945, Knorozov làm lính pháo binh và tham gia chiến đấu trong Cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Tháng 5/1945, Knorozovcùng đơn vị của mình hỗ trợ lực lượng tiên phong Hồng quân tiến vào Berlin.

Khi Cuộc chiến Berlin tàn cuộc, lúc đóng quân tại Berlin, Knorozovđi ngang qua Thư viện Quốc gia đúng lúc nó bốc cháy dữ dội. Ông đã thành công lấy được một cuốn sách từ thư viện đang cháy. Đáng chú ý, hóa ra đây là một ấn bản hiếm chứa bản sao của ba cuốn sách chép tay của người Maya – mà sau này được biết đến là sách chép tay Dresden, Madrid và Paris. Knorozovđã mang theo cuốn sách này khi trở về Moscow. Việc nghiên cứu cuốn sách chính là nền tảng cho công trình tiên phong giải mã chữ viết của người Maya về sau.

Tuy nhiên, sau này Yuri Knorozov đã đính chính lại câu chuyện, rằng chẳng có trận hỏa hoạn nào hết và cuốn sách đã được chuẩn bị để gửi về Moscow. Một lần nữa, tính thật giả của câu chuyện lại càng khó xác định khi hồ sơ quân sự của Knorozovcho biết ông chưa từng tới Berlin, vì lúc đó đơn vị của ông đóng quân gần Moscow.

Vào mùa thu năm 1945, Knorozovtrở lại Đại học bang Moscow để hoàn thành việc học.

Bảng chữ cái de Landa

Năm 1947, Knorozovviết luận văn về “Bảng chữ cái de Landa”- ghi chép của Giám mục Diego de Landa người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16. Trong đó, ông tuyên bố là đã phiên âm bảng chữ cái Tây Ban Nha theo bảng chữ tượng hình Maya tương ứng, dựa trên thông tin mà những người bản địa Maya cung cấp.

Trong thời gian tại nhiệm ở Yucatán,De Landa đã giám sát việc phá hủy mọi sách chép tay từ nền văn minh Maya mà mình có thể tìm thấy. Và nhằm biện minh cho hành động này nếu bị đưa ra tòa án khi được gọi về Tây Ban Nha, ông đã tạo ra bảng chữ cái trong tác phẩm Relación de las Cosas de Yucatán Relación de las cosas de Yucatán (Báo cáo về những sự việc xảy ra ở Yucatán).

Văn bản gốc đã biến mất, và công trình này không được ai biết tới cho đến tận năm 1862, khi người ta tìm ra bản sao tóm tắt trong kho lưu trữ của Viện Hàn lâm Hoàng gia Tây Ban Nha. Vì “bảng chữ cái” của de Landa có những điều mâu thuẫn và không rõ ràng, nên việc sử dụng nó làm chìa khóa giải mã hệ thống văn tự Maya của những người đi trước đều thất bại.

Công cuộc giải mã


Nhìn qua, các chữ tượng hình của Maya trông như một dạng lối chữ hình vẽ kỳ dị. Người Maya sử dụng văn tự là hình đầu động vật, các bộ phận cơ thể, các vị thần, và nhiều hình ảnh bí ẩn khác, tất cả được sắp xếp vào các khối để tạo thành văn bản. Quan niệm phổ biến trong nhiều thập niên cho rằng các hình chữ này chỉ là một hệ thống tượng hình rườm rà, trong đó mỗi hình ảnh thể hiện một từ hay một ý tưởng cụ thể.

Năm 1952, Knorozovđăng một bài báo mà sau này trở thành công trình có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong lĩnh vực. Điểm chính mà Knorozovchỉ ra là không sử dụng các hình chữ trong bảng chữ cái de Landa như chữ cái thật, mà đúng ra đây là các ký âm. Có lẽ ông không phải người đầu tiên đưa ra cơ sở âm tiết cho chữ viết, nhưng lập luận và bằng chứng của ông vô cùng thuyết phục cho tới ngày nay. Ông cho rằng các hình chữ Maya hoặc bao gồm dấu tốc ký (tức là các dấu hiệu được dùng để biểu hiện một từ hoàn chỉnh) hoặc gồm dấu hiệu ngữ âm. Trong trường hợp sau, mỗi hình chữ tượng trưng cho sự kết hợp phụ âm-nguyên âm. Knorozovtiếp tục nói đúng khi cho rằng một từ tiếng Maya hợp thành từ sự kết hợp phụ âm-nguyên âm-phụ âm, được viết bằng hai hình chữ, trong đó nguyên âm của hình chữ thứ hai không được phát âm. Vì thế, các hình chữ cho tzu và lu được phát âm là tzul, đây là từ “con chó” trong tiếng Maya. Với cách tiếp cận này, Knorozov có thể giải mã vô cùng nhiều biểu tượng tiếng Maya mà cho tới lúc đó vẫn chưa ai hiểu được. Ông công bố công trình quan trọng với tiêu đềPis’mennost’ Indeitsev Maiia(Chữ viết của người Da đỏ Maya) vào năm 1963. Điều thú vị là, ông đã đề tên con mèo Xiêm tên Asyacủa mình là đồng tác giả của một bài báo học thuật, và vô cùng phật ý khi người biên tập gạch tên con mèo đi.

Thật không may, Yuri Knorozov cùng luận văn mới đã vấp phải những lời chỉ trích vô cùng gay gắt. Theo quan điểm phổ biến trong cộng đồng khoa học thời bấy giờ, hình chữ được hình thành dựa trên các nguyên tắc ý thức hệ. Học giả hàng đầu về nền văn minh Maya là John Eric Thompson đã công khai chỉ trích công trình của Knorozov là “thứ vớ vẩn từ một tên nhãi nhép ở Kharkiv”, và gọi những người có cùng quan điểm với ông là “lũ phù thủy cưỡi mèo hoang theo lệnh Yuri và lao xuống từ bầu trời đêm”.

Trong những năm 1960, các nhà Maya học và người nghiên cứu bắt đầu mở rộng tìm hiểu dựa trên các ý tưởng của Knorozov. Công việc nghiên cứu thực địa và kiểm tra sâu hơn về các dòng chữ khắc còn tồn tại bắt đầu chỉ ra rằng lịch sử thực sự của Maya được ghi lại trong các dòng chữ khắc trên tấm bia, chứ không chỉ là thông tin về thiên văn và lịch. Những người ban đầu ủng hộ cách tiếp cận ngữ âm do Knorozov đưa ra bao gồm Michael D. Coe và David Kelley. Dù lúc đầu họ chỉ là những tiếng nói yếu ớt, nhưng sau đó ngày càng có nhiều người đấu tranh cho quan điểm này khi xuất hiện thêm bằng chứng và việc nghiên cứu có tiến triển. Một bước đột phá quan trọng xảy ra trong hội nghị bàn tròn đầu tiên, hay hội nghị Mesa Redona tại di chỉ Maya ở Palenque vào năm 1973. Khi sử dụng cách tiếp cận âm tiết, hầu hết những người có mặt đều giải mã được các dòng chữ, và hóa ra đây là danh sách người cai trị trước đây của thành bang Maya.

Năm 1975, từ điển đầu tiên về chữ viết tượng hình của người Maya ra đời. Nó không chỉ cho phép người hiện đại phục hồi được lịch sử của tộc người vĩ đại này nhờ đọc các tài liệu cổ (có khoảng 6 triệu hậu duệ của người Maya sống rải rác ở các quốc gia Mỹ Latin), mà còn bắt đầu một giai đoạn nghiên cứu mới về các nền văn minh thời tiền Columbia.

Do những hạn chế đi lại của Liên Xô, mãi tới năm 1990 Knorozov mới có thể lần nữa rời nước Nga và đến thăm những vùng đất cổ xưa của người Maya, cũng như các di tích khảo cổ ở Mexico và Guatemala. Chính phủ Mexico đã trao tặng cho ông Orden del Águila Azteca (Huân chương Đại bàng Aztec), đây là huân chương cao quý nhất được nước này trao cho người nước ngoài vào năm 1994. Ông qua đời vào ngày 30/3/1999 do các biến chứng từ đột quỵ, ngay trước khi chuẩn bị nhận Giải thưởng Proskouriakoff danh dự của Đại học Harvard.

Nguồn: scihi.org, kyivpost.com