Đến nay, hầu hết các nước vẫn chưa kiểm soát được đại dịch COVID-19, và các nhà khoa học cảnh báo rằng các đợt bùng phát dịch bệnh gây chết người khác là không thể tránh khỏi trong tương lai.

Chỉ trong hơn một thế kỷ qua, đã có hơn sáu đại dịch cúm và dịch bệnh khác nhau. Virus Ebola đã lây lan từ động vật sang người khoảng 25 lần trong 5 thập kỷ qua. Và đã có ít nhất bảy virus corona, bao gồm cả SARS-CoV-2, đã gây ra bệnh tật và tử vong.

"Gần như không thể ngăn không xảy ra đại dịch, vì vậy chìa khóa là phải chuẩn bị sẵn sàng," Youngmee Jee, giám đốc điều hành tại Viện Pasteur, Hàn Quốc cho biết.

Khi các kế hoạch phòng chống đại dịch mới đang hình thành trên khắp thế giới, trang tin Nature đã phỏng vấn nhiều nhà nghiên cứu để tìm hiểu đâu là các yếu tố đang cản trở việc xác định và kiểm soát đại dịch, và điều gì phải thay đổi.

Một bác sĩ thú y ở Shahpur, Ấn Độ, xét nghiệm cúm H5N1 trên gà vào tháng 1/2021 sau khi xuất hiện gia cầm chết trong khu vực.

Tại sao hệ thống cảnh báo hiện nay không hiệu quả?

“Mọi thứ cần bắt đầu với hệ thống giám sát thông minh hơn. Nếu không chủ động tìm kiếm, chúng ta sẽ không phát hiện đại dịch và ứng phó quá muộn,” nhà nghiên cứu bệnh truyền nhiễm Jeremy Farrar, giám đốc quỹ y sinh Wellcome của Anh, viết trong cuốn sách mới Spike: The Virus vs the People - the Inside Story.

Chúng ta thường phát hiện dịch bệnh quá muộn. Dịch bệnh Ebola lớn nhất thế giới đã lây lan hơn một tháng trước khi ca bệnh đầu tiên được chẩn đoán. Tương tự, các nhà khoa học đồng ý rằng người dân Trung Quốc có thể đã bị nhiễm SARS-CoV-2 từ vài tuần trước khi các cơ quan chức năng báo cáo về căn bệnh viêm phổi bí ẩn ở Vũ Hán. Do phát hiện quá muộn, rất khó ngăn chặn các đợt bùng phát dịch bệnh vì chúng đã lan ra nhiều khu vực. Năm 1952, một trong những động thái đầu tiên của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) mới thành lập là thiết lập Hệ thống Giám sát và Ứng phó với Cúm toàn cầu. Kể từ đó, hệ thống này đã giúp cảnh báo sớm các đợt bùng phát cúm, chẳng hạn như cúm gia cầm H5N1.

Các tác nhân gây bệnh chưa xác định hoặc bất ngờ thì khó theo dõi hơn, nhưng kỹ thuật giải trình tự bộ gen tiên tiến hiện nay có thể hữu ích. Ví dụ, ở Ede, Nigeria, các nhà khoa học tại Trung tâm xuất sắc về gen của các bệnh truyền nhiễm châu Phi tìm kiếm DNA và RNA ngoại lai trong mẫu máu của những bệnh nhân bị sốt cao nhưng xét nghiệm âm tính với các bệnh phổ biến nhất trong khu vực. Sử dụng phương pháp này, họ đã phát hiện ra một đợt bùng phát bệnh sốt chưa xác định vào năm 2017. “Đây là một phương pháp rất tốt để tìm ra những dịch bệnh chưa biết,” Judith Oguzie, nhà nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại trung tâm giải thích.

Các nhà khoa học phân tích các mẫu virus corona ở Ede, Nigeria.

Một số nhà nghiên cứu nói rằng hình thức giám sát này nên được mở rộng: thường xuyên xét nghiệm những người làm việc trong rừng, trong các trang trại xử lý động vật và trong các phòng thí nghiệm virus học - những nơi tiếp xúc gần với mầm bệnh.

Cần cải thiện cơ bản việc giám sát, theo Mosoka Fallah, chủ tịch của tổ chức Refuge Place International ở Monrovia, Liberia. Các nhà tài trợ thường hỗ trợ giám sát như một dự án hữu hạn hơn là một quá trình lâu dài, và điều này đi ngược lại với mục đích giám sát dịch bệnh.

Một trường hợp điển hình: Liberia đã nhận được hơn 19 triệu USD từ các nhà tài trợ, bao gồm cả chính phủ Mỹ và Ngân hàng Thế giới, để tăng cường hệ thống y tế và giám sát sau đợt bùng phát dịch Ebola vào năm 2014–16, nhưng kể từ đó đến nay, nguồn tài trợ đã hết.

Theo Chỉ số An ninh Y tế Toàn cầu năm 2019, Liberia nằm trong số hơn 70 quốc gia thiếu năng lực phát hiện các bệnh dịch mới nổi và trong số 130 quốc gia có hệ thống y tế không đủ khả năng ứng phó khi dịch bệnh bùng phát. Tại những nơi này, Fallah nói, những nỗ lực nhất thời sẽ chỉ là vô ích.

Các nhà nghiên cứu thu thập dơi ở Ratchaburi, Thái Lan.

Cải thiện hệ thống dữ liệu

Các nhà dịch tễ học tìm hiểu về các căn bệnh mới nổi bằng cách thu thập dữ liệu, và chất lượng kết quả phụ thuộc vào chất lượng dữ liệu thô. Caitlin Rivers tại Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins ở Baltimore, Maryland, nói rằng thế giới đã mất nhiều thời gian quý giá vào tháng 1 và tháng 2/2020, khi cô và các đồng nghiệp của mình phải thu gom các dữ liệu vụn vặt về COVID-19 từ các báo cáo, các bài báo và các bài đăng rời rạc trên mạng xã hội.

Hệ thống dữ liệu tốt hơn sẽ giúp các nhà dịch tễ học xác định dịch bệnh nhanh chóng và chắc chắn hơn, chẳng hạn như việc SARS-CoV-2 có lây lan trong không khí hay không, và nó có thể lây truyền từ những người không có triệu chứng hay không, Rivers nói. Các kết quả này sẽ kéo theo các khuyến cáo về các biện pháp như xét nghiệm rộng rãi và khẩu trang. Jennifer Nuzzo, nhà dịch tễ học tại Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins, cho biết thêm các dự đoán từ các mô hình toán học, nếu có dữ liệu, sẽ trở nên chính xác hơn.

Nhiều người chỉ trích Trung Quốc đã không công khai nhiều thông tin khi đại dịch bùng phát, nhưng Trung Quốc không phải nước duy nhất. Một số hạt ở Mỹ từ chối chia sẻ thông tin chi tiết về việc bùng phát dịch bệnh tại các công ty và nhà tù với Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh. Tại Ấn Độ, các nhà báo địa phương nói rằng các quan chức đã không chia sẻ số liệu dịch bệnh một cách kịp thời.

Để có được dữ liệu toàn diện hơn, cần có các biện pháp khuyến khích chia sẻ. Chẳng hạn, các bên chia sẻ dữ liệu sẽ có quyền truy cập vào các công nghệ và kết quả mà dữ liệu này mang lại, theo Suerie Moon, nhà nghiên cứu sức khỏe toàn cầu tại Viện Nghiên cứu Quốc tế và Phát triển ở Geneva, Thụy Sĩ.

Moon nói rằng việc chia sẻ dữ liệu dịch tễ học và bộ gen khi bùng phát dịch là một vấn đề chính trị phải được thương lượng ở các cấp cao và thông qua các hiệp ước đa phương. Các cuộc thảo luận như vậy đang diễn ra, Moon nói, nhưng chưa giải quyết được các vấn đề chính, bao gồm việc WHO được phép làm gì nếu một quốc gia bị nghi ngờ che giấu thông tin.

Truyền đạt thông tin đến công chúng

Các quan chức y tế công cộng ở Đài Loan và Hàn Quốc đã lo ngại về COVID-19 ngay từ đầu. Họ khuyến nghị đeo khẩu trang và tăng cường sản xuất khẩu trang ngay sau khi xuất hiện các ca nhiễm đầu tiên, nhà nghiên cứu y sinh Chien-Jen Chen ở Đài Loan, cho biết. Ở cả hai nơi, các cơ quan chính phủ họp gần như hằng ngày để thống nhất các thông tin cập nhật cần gửi đến công chúng.

Ngược lại, ở nhiều quốc gia, COVID-19 và các thông điệp trái ngược nhau xung quanh nó lan truyền ngoài tầm kiểm soát. Tại Mỹ, đến tháng 4/2020, các quan chức y tế mới khuyến nghị đeo khẩu trang; nhưng đến khi có khuyến nghị, tổng thống khi đó là Donald Trump lại ủng hộ việc không đeo khẩu trang.

Tại Brazil, Tổng thống Jair Bolsonaro đã có quan điểm mâu thuẫn với các nhà khoa học trong nước, coi thường COVID-19, gọi đây là “bệnh cúm nhẹ”. Bolsonaro cũng sa thải hai bộ trưởng y tế, những người ủng hộ các biện pháp kiểm soát dịch như giãn cách xã hội.

Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ liên lạc với các đơn vị y tế địa phương.

Vào tháng 5/2020, WHO đã thông qua một nghị quyết trong đó các quốc gia đồng ý chống lại thông tin sai lệch trong nước, chẳng hạn như làm việc với các nhà khoa học dữ liệu và các công ty truyền thông xã hội để khuếch đại phạm vi tiếp cận của các thông điệp đáng tin cậy.

Các biện pháp y tế công cộng mạnh mẽ hơn

Trong suốt quá trình diễn ra đại dịch, các nhà nghiên cứu sức khỏe cộng đồng và bệnh truyền nhiễm liên tục kêu gọi các nhà lãnh đạo thực thi các biện pháp hạn chế COVID-19 lây lan, nhưng thường là vô ích. Một giải pháp là cho phép các cơ quan y tế công cộng có nhiều quyền lực hơn trong các cuộc khủng hoảng y tế, cùng với ngân sách lớn hơn và ổn định hơn. Nhưng, ở nhiều nơi, tình hình thực tế hoàn toàn ngược lại.

Theo một báo cáo hồi tháng 5 từ Hiệp hội Quốc gia Hoa Kỳ về các Cơ quan Y tế Hạt & Thành phố, ít nhất 15 bang đã thông qua hoặc đang xem xét các luật để hạn chế thẩm quyền pháp lý của các cơ quan y tế công cộng.

Một vấn đề khác là mọi người không thể tuân theo các khuyến nghị về sức khỏe cộng đồng, chẳng hạn như cách ly, nếu chúng làm ảnh hưởng đến kế sinh nhai của bản thân và gia đình.

Có nghiên cứu đã phát hiện ra mối tương quan giữa bất bình đẳng thu nhập với số trường hợp mắc COVID-19 và tử vong ở các quận của Mỹ. Giải quyết bất bình đẳng - hoặc ít nhất là các biện pháp tạm thời hạn chế bất bình đẳng trong trường hợp khẩn cấp - nên là một phần quan trọng của kế hoạch ứng phó đại dịch, nhưng các biện pháp như vậy hiếm khi được đưa ra, Theo Nuzzo, “Mọi người thừa nhận điều này là quan trọng, nhưng đều thấy quá khó điều chỉnh. Chúng ta không thể kiểm soát được COVID-19 nếu còn tình trạng bất bình đẳng."

Các nhân viên y tế ở Mumbai sử dụng nhiệt kế kỹ thuật số để sàng lọc COVID-19.

Vaccine và thuốc phải đến với đúng người cần

Các công ty dược phẩm đã phát triển vaccine COVID-19 trong thời gian kỷ lục và các nhà nghiên cứu nói rằng họ có thể tăng tốc hơn nữa nếu các nghiên cứu giai đoạn đầu nhận được nhiều tài trợ hơn. Liên minh Đổi mới Chuẩn bị sẵn sàng Dịch bệnh (CEPI), đang huy động tiền cho một chiến lược 5 năm trị giá 3,5 tỷ USD, bao gồm chương trình nghiên cứu phát triển vaccine cho các bệnh mới trong vòng 100 ngày. Trong một đề xuất khác, Anthony Fauci, Giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ, đã gợi ý tạo ra vaccine 'nguyên mẫu' chống lại khoảng 20 họ virus để tăng tốc độ phát triển vaccine trong trường hợp khẩn cấp.

Tuy nhiên, các chính phủ chưa đạt được nhiều tiến độ trong việc phân phối nhanh chóng thuốc và vaccine trên khắp thế giới: Hiện nay, chưa đến 2% người dân ở các nước thu nhập thấp được chủng ngừa COVID-19 - hơn bảy tháng sau khi các cơ quan quản lý cấp phép các loại vaccine đầu tiên.

Một bác sĩ ở Vũ Hán, Trung Quốc, kiểm tra ảnh chụp phổi của một bệnh nhân COVID để tìm tổn thương vào tháng 2/2020.

Priti Krishtel, luật sư và nhà đồng sáng lập tổ chức phi lợi nhuận I-MAK, có trụ sở tại New York, nói rằng cần có các cơ chế cải thiện tình hình này cho các đại dịch trong tương lai. Các chính phủ có thể đồng ý tạm thời từ bỏ quyền sở hữu trí tuệ đối với vaccine trong thời kỳ đại dịch để các nhà sản xuất khác trên thế giới cùng tham gia sản xuất.

Tuy nhiên, các thỏa thuận như vậy yêu cầu sự tham gia của nhiều quốc gia, tương tự như các kế hoạch giám sát, chia sẻ dữ liệu và các kế hoạch ứng phó đại dịch khác. Stephen Morrison, phó chủ tịch của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế, một tổ chức tư vấn ở Washington DC, lưu ý rằng chủ nghĩa dân tộc, căng thẳng Mỹ - Trung và cuộc tấn công vào WHO đã làm hạn chế các nỗ lực toàn cầu chống lại COVID-19 vào năm 2020.

Ngoài ra cần có một liên minh mạnh mẽ hơn giữa các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thấp để giúp họ thương lượng trên trường quốc tế. Morrison và những người khác vẫn hy vọng rằng nhiều nhà lãnh đạo thế giới hiện đã nhận ra hệ quả tàn phá của đại dịch và có động lực thay đổi. Ví dụ, một báo cáo vào tháng 7 của một hội đồng thuộc G20 kêu gọi 75 tỷ USD tài trợ quốc tế cho việc phòng ngừa và chuẩn bị cho đại dịch - gấp đôi so với mức chi tiêu hiện tạicho lĩnh vực này. Morrison nói: “Nhận thức của mọi người đã thay đổi. Họ đang đối mặt với tình huống kinh dị này và nhận ra rằng có điều gì đó phải thay đổi."

Nguồn: