Việc gạt bỏ phụ nữ khỏi nghiên cứu trong một thời gian dài đã gây ra những hậu quả đáng lo ngại lên sức khỏe của chính người phụ nữ.

unoL/Shutterstock
Ngày càng có nhiều nghiên cứu sử dụng cả động vật đực và cái - và kết quả là các nhà khoa học dần phát hiện ra những khác biệt quan trọng về giới tính. Ảnh: unoL/Shutterstock

Hầu hết các loại thuốc chúng ta đang sử dụng ngày nay đều đã từng được các nhà khoa học thử nghiệm trên động vật. Tuy nhiên quá trình thử nghiệm không phải lúc nào cũng đáp ứng được yếu tố đa dạng bởi nếu đọc một báo cáo khoa học liên quan đến nghiên cứu trên chuột, bạn sẽ phát hiện ra là người ta thường sử dụng chuột đực.

Điều này có nghĩa là hiện tại, nếu bạn là phụ nữ và bạn sử dụng một loại thuốc chỉ được phát triển và thử nghiệm trên động vật đực, các bác sĩ cũng không biết loại thuốc đó sẽ ảnh hưởng đến bạn như thế nào.

Trước đây, các nhà khoa học thường cho rằng phản ứng giữa phụ nữ và đàn ông trong các thử nghiệm thuốc đều giống nhau. Nhưng ngày nay, quan điểm đó đang thay đổi bởi ngày càng có nhiều nghiên cứu sử dụng cả động vật đực và cái - và kết quả là các nhà khoa học dần phát hiện ra những khác biệt quan trọng về giới tính.

Chẳng hạn, ngày càng có nhiều bằng chứng từ các nghiên cứu trên động vật cho thấy có những khác biệt giới tính phức tạp trong não của loài gặm nhấm, liên quan đến kích thước, hình dạng và cách các tế bào thần kinh kết nối với nhau.

Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi các nghiên cứu ngày càng cho thấy sự khác biệt giới tính trong các vấn đề liên quan đến y học ở con người. Ví dụ, phụ nữ có nguy cơ bị chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm cao gấp đôi nam giới và sự khác biệt về giới tính cũng thể hiện rõ trong phản ứng của mỗi người đối với thuốc điều trị trầm cảm. Phụ nữ đáp ứng thuốc mạnh hơn nam giới với các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), trong khi nam giới thì đáp ứng thuốc tốt hơn với thuốc chống trầm cảm ba vòng.

Việc gạt bỏ phụ nữ khỏi nghiên cứu trong một thời gian dài đã gây ra những hậu quả đáng lo ngại lên sức khỏe của chính người phụ nữ. Một trong những hậu quả đó là chúng ta không thể lường trước được những phản ứng có hại của thuốc, bao gồm những triệu chứng như buồn nôn, đau đầu, co giật hoặc các vấn đề về tim mạch.

Phụ nữ thường có nguy cơ gặp phải các phản ứng có hại của thuốc cao gấp đôi, mặc dù nam giới có nguy cơ gặp phải một số tác dụng phụ cao hơn (Phản ứng có hại của thuốc - ADR - và tác dụng phụ đều là những phản ứng ngoài ý muốn khi sử dụng thuốc. Nhưng ADR có hại và không lường trước được hơn là tác dụng phụ. Tác dụng phụ dễ dự đoán hơn ADR. Ngoài ra, tác dụng phụ có thể có lợi hoặc có hại.) Một lý do chính là phụ nữ nhìn chung có vóc dáng nhỏ nhắn hơn nam giới, tuy nhiên liều lượng khuyến cáo của nhiều loại thuốc lại dựa trên cơ thể nam giới.

Bên cạnh đó, những người phụ nữ dùng thuốc chẹn beta trong điều trị các vấn đề về tim, sẽ có nồng độ thuốc này trong máu cao hơn. Điều này một phần vì cùng một lượng thuốc trong một lượng máu nhỏ hơn sẽ khiến ta có nồng độ thuốc cao hơn. Ngoài ra, phụ nữ cũng chuyển hóa nhiều loại thuốc khác với nam giới do nồng độ hormone giới tính và hoạt động của enzyme khác nhau.

Tại sao phụ nữ bị loại khỏi thí nghiệm?

Trong khoa học, các nhà khoa học mong muốn giảm thiểu sự biến đổi càng nhiều càng tốt, để đảm bảo bất kỳ thay đổi nào ở động vật hoặc con người tham gia thí nghiệm đều bắt nguồn từ những điều chỉnh có chủ đích của nhóm nghiên cứu. Nói cách khác, họ mong muốn mọi thứ đều sẽ nằm trong vòng kiểm soát.

Sinh vật giống cái thường bị loại khỏi các thử nghiệm lâm sàng vì chu kỳ kinh nguyệt. Các mức dao động hormone làm cho dữ liệu khó nắm bắt hơn, kết quả có nhiều biến đổi trong kết quả hơn và khiến nghiên cứu tốn kém hơn. Nếu hormone steroid ở nam giới rất ổn định thì nồng độ hormone nữ lại tăng và giảm liên tục. Điều này có thể ảnh hưởng đến chức năng và hành vi của não cũng như phản ứng của phụ nữ với thuốc.

Một phần, cách tiếp cận lấy nam giới làm trung tâm trong các thử nghiệm lâm sàng trên người cũng là do các bác sĩ sợ rằng phụ nữ trong độ tuổi sinh nở có thể đang mang thai mà chưa biết điều đó. Bi kịch thalidomide đã ăn sâu vào tâm lý này. Thalidomide được phát triển vào những năm 1950 như một loại thuốc an thần và trở thành phương pháp điều trị phổ biến cho chứng ốm nghén - nhưng loại thuốc này chưa từng được thử nghiệm trên động vật hoặc con người đang mang thai.

Các bác sĩ dần nhận ra rằng thalidomide có liên quan đến những tình trạng bất thường ở trẻ sinh ra từ những bà mẹ dùng thuốc này. Nhưng đã quá muộn đối với ước tính khoảng 10.000 trẻ sơ sinh trên toàn thế giới sinh ra với chân, tay kém phát triển và các dị tật bẩm sinh khác.

Mọi điều có trở nên tốt hơn?

Ngày càng có nhiều nghiên cứu xem xét sự tương tác giữa thuốc và chu kỳ kinh nguyệt, những thay đổi trong thai kỳ và biện pháp tránh thai nội tiết tố. Ví dụ, một số loại thuốc chống động kinh có thể làm giảm hiệu quả của biện pháp tránh thai nội tiết tố, và ngược lại biện pháp tránh thai nội tiết tố cũng có thể làm giảm hiệu quả của một số loại thuốc chống động kinh. Nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần tìm hiểu thêm, bởi phụ nữ đã bị loại ra khỏi các thử nghiệm lâm sàng trong quãng thời gian dài.

d
Chúng ta đang bước sang kỷ nguyên y học cá nhân hóa, trong đó các bác sĩ có thể kê đơn thuốc trên cơ sở kết quả chẩn đoán của mỗi cá nhân, dựa trên các thông tin về bộ gen của từng người, để biết khả năng đáp ứng thuốc. Ảnh: Antidote

Phải đến những năm 1990, phụ nữ mới trở thành đối tượng bắt buộc trong nghiên cứu lâm sàng tại Mỹ. Khoảng 30 năm sau, nghiên cứu cho thấy khoảng một nửa số người tham gia trong những nghiên cứu lâm sàng do Viện Y tế Quốc gia (NIH), cơ quan nghiên cứu y học Hoa Kỳ tài trợ, là phụ nữ.

Các nhà hoạch định chính sách đang tiếp tục thảo luận để bổ sung cả giới tính sinh học (được xác định về mặt di truyền) và giới (nhận dạng cá nhân của một người) vào việc thiết kế, phân tích và báo cáo các nghiên cứu lâm sàng. Nhiều tạp chí khoa học cũng đưa ra quy định chỉ công bố những nghiên cứu có xét đến giới tính trong thiết kế, phân tích và báo cáo.

Trong khi đó, phải mất một thời gian rất dài để đưa chuột cái vào nghiên cứu. Vào năm 2014, NIH, một trong những nhà tài trợ cho nghiên cứu y học lớn nhất thế giới, đã thông báo tất cả những ai nộp hồ sơ xin tài trợ cần phải có sự cân bằng giới giữa động vật và tế bào đực và cái trong các đề tài đề xuất. Các cơ quan tài trợ nghiên cứu lớn ở các quốc gia khác như Viện Nghiên cứu Y tế Canada và Ủy ban Châu Âu sau đó cũng đã học hỏi chính sách này.

Mọi thay đổi đều đòi hỏi thời gian, nhất là khi thường phải mất 10-15 năm để phát triển một loại thuốc mới. Còn các thử nghiệm lâm sàng tiếp theo, có thể cũng mất nhiều thời gian tùy thuộc vào độ khó của việc tuyển dụng tình nguyện viên tham gia.

Chúng ta đang bước sang kỷ nguyên y học cá nhân hóa, trong đó các bác sĩ có thể kê đơn thuốc trên cơ sở kết quả chẩn đoán của mỗi cá nhân, dựa trên các thông tin về bộ gen của từng người, để biết khả năng đáp ứng thuốc. Nhưng phụ nữ sẽ không được hưởng nhiều lợi ích từ thuốc nếu chúng ta không hiểu một cách chính xác loại thuốc sẽ dùng ảnh hưởng đến họ như thế nào.

Nguồn: