Sông Gianh là con sông chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình và là biểu trưng địa lý của vùng đất này. Đây là một trong những địa danh có lịch sử hào hùng nhất Việt Nam.

Sông Gianh bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi cao 2.017m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện Minh Hóa, Tuyên Hoá, Quảng Trạch, Bố Trạch để đổ ra biển Đông ở Cửa Gianh. Ảnh: Lê Quang.
Sông Gianh bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi cao 2.017m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện Minh Hóa, Tuyên Hoá, Quảng Trạch, Bố Trạch để đổ ra biển Đông ở Cửa Gianh. Ảnh: Lê Quang.


Dòng chảy ở thượng nguồn theo hình chữ V với hướng chủ đạo là Tây Nam-Đông Bắc. Ảnh: Lê Quang.
Dòng chảy ở thượng nguồn theo hình chữ V với hướng chủ đạo là Tây Nam-Đông Bắc. Ảnh: Lê Quang.


Từ điểm giáp ranh ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa bắt đầu chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Tới ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa nó tiếp nhận thêm nước từ một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn, chảy về từ phía Tây. Phía dưới thị trấn Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy ra từ khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Ảnh: Nguyễn Thăng Long.
Từ điểm giáp ranh ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa bắt đầu chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Tới ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa nó tiếp nhận thêm nước từ một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn, chảy về từ phía Tây. Phía dưới thị trấn Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy ra từ khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Ảnh: Nguyễn Thăng Long.

Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua quốc lộ 1 ở Tây Bắc Cửa Gianh 5 km. Ảnh: Nguyễn minh Tân.
Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua quốc lộ 1 ở Tây Bắc Cửa Gianh 5 km. Ảnh: Nguyễn minh Tân.

Diện tích lưu vực 4.680 km2, độ cao trung bình 360m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95 km3 ứng với lưu lượng nước trung bình năm 252 m3/s, môđun dòng chảy năm 53,8 l/s.km2. Ảnh: Lê Quang.
Diện tích lưu vực 4.680 km2, độ cao trung bình 360m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95 km3 ứng với lưu lượng nước trung bình năm 252 m3/s, môđun dòng chảy năm 53,8 l/s.km2. Ảnh: Lê Quang.

Mùa lũ từ tháng 9-11, chiếm khoảng 60 - 75% lượng dòng chảy hàng năm. Ảnh: Lê Quang.
Mùa lũ từ tháng 9-11, chiếm khoảng 60 - 75% lượng dòng chảy hàng năm. Ảnh: Lê Quang.

Dòng cát bùn khoảng 1,93x105 tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192 g/m3 và hệ số xâm thực 168 tấn/km2 năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47 km. Ảnh: Lê Quang.
Dòng cát bùn khoảng 1,93x105 tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192 g/m3 và hệ số xâm thực 168 tấn/km2 năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47 km. Ảnh: Lê Quang.

Đoạn thượng lưu từ Khe Nét trở về nguồn dài khoảng 70 - 80 km, lòng sông nhiều thác ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Tới Đồng Tâm, lòng sông rộng khoảng 80 - 90m, lớn nhất 110 - 115m. Đoạn từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên tới thị trấn Ba Đồn, lòng sông có 5 cồn, đảo nhỏ trên sông, trong đó đảo dài nhất khoảng 3,8 km rộng nhất khoảng 0,8 km. Ngay dưới Ba Đồn lòng sông rộng tới 1 km. Ảnh: Lê Quang.
Đoạn thượng lưu từ Khe Nét trở về nguồn dài khoảng 70 - 80 km, lòng sông nhiều thác ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Tới Đồng Tâm, lòng sông rộng khoảng 80 - 90m, lớn nhất 110 - 115m. Đoạn từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên tới thị trấn Ba Đồn, lòng sông có 5 cồn, đảo nhỏ trên sông, trong đó đảo dài nhất khoảng 3,8 km rộng nhất khoảng 0,8 km. Ngay dưới Ba Đồn lòng sông rộng tới 1 km. Ảnh: Lê Quang.

Sông Gianh và Đèo Ngang là biểu trưng địa lý của tỉnh Quảng Bình. Phần thượng lưu sông Gianh có tên là Rào Nậy với những đặc điểm địa vật lý và địa chất dị thường của Rào Nậy - Hoành Sơn, một nhánh khác là Rào Son có động Phong Nha (vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, di sản thiên nhiên thế giới). Cửa sông có cảng biển gọi là Cảng Gianh. Ảnh: Lê Quang.
Sông Gianh và Đèo Ngang là biểu trưng địa lý của tỉnh Quảng Bình. Phần thượng lưu sông Gianh có tên là Rào Nậy với những đặc điểm địa vật lý và địa chất dị thường của Rào Nậy - Hoành Sơn, một nhánh khác là Rào Son có động Phong Nha (vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, di sản thiên nhiên thế giới). Cửa sông có cảng biển gọi là Cảng Gianh. Ảnh: Lê Quang.

Trong lịch sử, sông Gianh được gọi theo tên chữ là Linh Giang (chữ Hán:靈江). Nếu Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Cồ Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939) và trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069) thì sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672). Chiến trường chính là miền Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang gắn với huyền thoại
Trong lịch sử, sông Gianh được gọi theo tên chữ là Linh Giang (chữ Hán:靈江). Nếu Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Cồ Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939) và trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069) thì sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672). Chiến trường chính là miền Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang gắn với huyền thoại "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, một danh tướng thời Lê Trung Hưng, con thứ của Nguyễn Kim, sợ bị Trịnh Kiểm mưu hại, đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá, mở đầu nhà Nguyễn sau này. Ảnh: Lê Quang.

Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới Bắc Nam là sông Gianh. Bờ bắc sông có chợ Ba Đồn là nơi quân Trịnh mua đồ ăn uống và trao đổi hàng hóa. Bờ nam sông có một số thành lũy chắc chắn do Đào Duy Từ tổ chức xây đắp, luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km. Di tích Lũy Thầy, Quảng Bình quan, thành quách của thời Trịnh Nguyễn nay vẫn còn. Ảnh: Lê Quang.
Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới Bắc Nam là sông Gianh. Bờ bắc sông có chợ Ba Đồn là nơi quân Trịnh mua đồ ăn uống và trao đổi hàng hóa. Bờ nam sông có một số thành lũy chắc chắn do Đào Duy Từ tổ chức xây đắp, luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km. Di tích Lũy Thầy, Quảng Bình quan, thành quách của thời Trịnh Nguyễn nay vẫn còn. Ảnh: Lê Quang.

Ảnh: Lê Quang.
Ảnh: Lê Quang.