Chiến lược đặt mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam, nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới. Mục tiêu tổng quát là xây dựng một hệ thống giáo dục hiện đại, công bằng và bình đẳng, phục vụ học tập suốt đời, đồng thời phát huy tối đa tiềm năng và khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Giáo dục Việt Nam sẽ "đổi mới mạnh mẽ căn bản và toàn diện", theo hướng "chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất, đặc biệt là năng lực đổi mới và sáng tạo của người học [...]", Chiến lược nêu rõ.
Có 10 nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm được đưa ra để hiện thực hóa Chiến lược, bao gồm: Hoàn thiện thể chế giáo dục; Đổi mới quản lý giáo dục và quản trị nhà trường; Thực hiện công bằng trong tiếp cận giáo dục; Phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của người dân; Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục; Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Bảo đảm nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và tăng cường chuyển đổi số trong giáo dục; Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học; Tăng cường hội nhập quốc tế.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược là cập nhật chương trình giảng dạy để đáp ứng nhu cầu thực tế. Ví dụ,
môn Toán sẽ giảm bớt sự tập trung vào việc giải quyết bài toán nhanh và ghi nhớ các công thức phức tạp, thay vào đó sẽ khuyến khích học sinh áp dụng nhiều phương pháp giải quyết vấn đề khác nhau và hiểu rõ ứng dụng của chúng trong thực tế. Đồng thời, môn Toán sẽ tích hợp với các môn học khác như Vật lý, Hóa học, Sinh học, Địa lý, Tin học, Công nghệ, v.v để tạo ra một sự liên kết kiến thức chặt chẽ hơn. Cách đánh giá môn Toán cũng được đa dạng hóa, bao gồm quan sát, ghi lại quá trình thực hiện, dự án học tập, và vấn đáp, thay vì chỉ dựa vào bài kiểm tra truyền thống.
Tương tự, trong
môn Khoa học (lớp 4, 5), các bài thí nghiệm lý thuyết trừu tượng sẽ được thay thế bằng các thí nghiệm, thực hành đơn giản của học sinh trên thực tế, bao gồm cả việc tập trung vào các chủ đề như năng lượng sạch, sức khỏe và môi trường. Hơn nữa, chương trình môn Khoa học là chương trình mở, cho phép giáo viên được lựa chọn đối tượng học tập sẵn có ở địa phương để dạy học nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu chương trình.
Một đặc điểm cốt lõi khác của Chiến lược là nhấn mạnh tinh thần khởi nghiệp thông qua việc đưa các môn học giáo dục khởi nghiệp vào cho học sinh từ cấp phổ thông đến đại học. Nói chung, các môn học tích hợp Khoa học, Kỹ thuật, Công nghệ, Toán học (STEM) và nghiên cứu khoa học sẽ được đề cao trong chương trình giáo dục của trường phổ thông để nâng cao năng lực tự học, tư duy, tinh thần khởi nghiệp và khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích, điều kiện của bản thân học sinh. Các trường đại học cũng được khuyến khích tăng cường nghiên cứu khoa học và hình thành mạng lưới đổi mới sáng tạo, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của riêng mình.
Đáng chú ý, Chiến lược không còn đặt ra tỷ lệ học nghề sau trung học cơ sở khoảng 30% như giai đoạn trước. Điều này
giảm tải áp lực cho địa phương, tránh được việc phân luồng khiên cưỡng như hiện nay, và nhấn mạnh việc tạo điều kiện cho các học sinh được bình đẳng về quyền được tiếp cận giáo dục theo nhu cầu.
Đặc biệt, Chiến lược đề cập đến việc sẽ tăng
số năm giáo dục bắt buộc của tất cả công dân từ năm năm (tiểu học) như hiện nay lên thành chín năm (tiểu học + trung học cơ sở).
Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030 còn nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ và tăng cường chuyển đổi số trong giáo dục, bao gồm cả ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc quản trị, quản lý giáo dục và các cơ sở dữ liệu giáo dục.
Chiến lược cũng đề cập đến việc tăng ngân sách cho giáo dục, đảm đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước như theo quy định. Trong thập kỷ qua,
mức chi cho giáo dục không đạt được con số này. Mức chi cao nhất là 19,1% của năm 2019, các năm còn lại dao động từ 15,7% đến hơn 18%.
Với việc chính thức ban hành, các nhiệm vụ của Chiến lược sẽ được triển khai cho gần 53.900 cơ sở giáo dục của Việt Nam, ảnh hưởng tới hơn 25 triệu học sinh, sinh viên trên toàn quốc.