Khi xuất bản Against Our Will: Men, Women, and Rape (Trái với ý muốn của chúng ta: Đàn ông, Phụ nữ và Hiếp dâm) năm 1975, Susan Brownmiller hẳn không thể hình dung cuốn sách của bà gây tranh cãi như nào trong toàn bộ phe phái chính trị.

Trong sách, Brownmiller mô tả kẻ hiếp dâm là “những quân đoàn xung kích nam tính tuyến đầu, những du kích khủng bố trong trận chiến dai dẳng nhất mà thế giới từng chứng kiến”, và tuyên bố “Việc người đàn ông phát hiện ra rằng bộ phận sinh dục của anh ta có thể dùng làm vũ khí gây sợ hãi phải được xếp vào một trong những khám phá quan trọng nhất của thời tiền sử, cùng với việc sử dụng lửa và chiếc rìu đá thô sơ đầu tiên”.

Năm 1971, cùng thời điểm Brownmiller bắt đầu nghiên cứu, quân Pakistan xâm lược quốc gia láng giềng Bangladesh và hãm hiếp khoảng 200.000-400.000 phụ nữ. Các cuộc tấn công khiến ít nhất 25.000 phụ nữ mang thai. Nhiều người trong số họ bị gia đình xa lánh, dẫn tới hàng ngàn ca phá thai và nhiều trường hợp giết trẻ sơ sinh và tự tử.

Sau bốn năm nghiên cứu, năm 1975, cuốn sách Against Our Will ra đời, được dịch ra hàng chục ngôn ngữ và tái bản liên tục cho tới nay. Thư viện công cộng New York đã xếp tác phẩm này là một trong 100 cuốn sách quan trọng nhất thế kỷ 20. Against Our Will phân tích lịch sử của nạn hiếp dâm và quy tắc của nó, đưa ra một cái nhìn toàn diện về tội ác này trong nhiều thế kỷ, từ thời tiền sử cho đến ngày nay. Tác giả đã tìm hiểu từ thời Hy Lạp và Palestine cổ đại, châu Âu thời trung cổ, cho đến cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, chiến tranh ở Việt Nam và cuộc tấn công của binh lính Pakistan kể trên.

Bà Brownmiller gọi hiếp dâm thời chiến là “một hành động quen thuộc với một cái cớ quen thuộc”, một hình thức thống trị văn hóa hạ thấp phẩm giá hiếm khi được coi là một hành động tàn bạo, chứ đừng nói đến việc vi phạm nhân quyền. Năm 2008, Liên Hợp Quốc đã nhất trí thông qua một nghị quyết lên án bạo lực tình dục là vũ khí chiến tranh, một chiến thuật quân sự để tăng cường khuất phục bên thua cuộc.

Brownmiller còn bàn tới sự hiện diện của nạn hiếp dâm trong nhà tù nam và coi đây là một yếu tố trong tình trạng lạm dụng trẻ em trong gia đình. Nhưng trọng tâm chính mà bà hướng tới là mối quan hệ giữa nam và nữ, và cách mà mối đe dọa về bạo lực tình dục luôn hiện hữu trong hôn nhân và các mối quan hệ. Bà lập luận rằng hiếp dâm không nên chỉ được coi là một hành vi tình dục, mà là một hành vi thể hiện quyền lực và sự đe dọa có tác động cuối cùng là khiến phụ nữ phải phục tùng.

Trước khi nghiên cứu tài liệu để viết cuốn sách này, Brownmiller từng ủng hộ quan điểm cho rằng hiếp dâm là một tội ác do “những kẻ lệch lạc” gây ra, và nó chỉ xảy ra với những người phụ nữ cư xử tồi tệ. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ những người sống sót như Sarah Pines - người phụ nữ bị cưỡng bức khi đi nhờ xe, thì bà đã thay đổi suy nghĩ của mình.

Vào những năm cuối 1960, trước khi các nhà hoạt động nữ quyền bắt đầu lên tiếng về nạn hiếp dâm, có một số quan điểm phổ biến cho rằng nguồn cơn của tội ác này là ham muốn tình dục không kiềm chế của đàn ông cùng sự dung túng của người phụ nữ. Brownmiller phản bác quan điểm trên; bà nhìn nhận hiếp dâm là sản phẩm của việc nam giới nhìn nhận phụ nữ, trẻ em gái trong xã hội là món hàng hóa và coi họ là đồ vật (objectify). Không, bà viết, phụ nữ không thầm mong muốn bị xâm hại tình dục, và đúng vậy, việc bị cưỡng hiếp trái với ý chí của nạn nhân hoàn toàn có thể xảy ra về mặt thể chất. Đây là cuốn sách đầu tiên coi hiếp dâm là một hành động chính trị chứ không phải hành vi cá nhân, và nó mang lại lợi ích cho toàn thể nam giới.

Phong trào phụ nữ dâng cao đã mở mắt công chúng về tình trạng bạo lực tình dục. Các nhóm chống hiếp dâm đã bắt đầu hình thành vào đầu những năm 1970. Các tác phẩm mang tính đột phá như Our Bodies, Ourselves (1971) đã trao quyền cho phụ nữ để kiểm soát cơ thể và hoạt động tình dục của họ. Công trình của Brownmiller, được khơi gợi và song hành cùng những nhà nữ quyền khác, đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy các đạo luật đầu tiên hình sự hóa hành vi cưỡng hiếp trong hôn nhân ở Mỹ, được thông qua vào cuối những năm 1970. Bà còn truyền cảm hứng cho các chiến dịch ban hành các “luật bảo vệ nạn nhân hiếp dâm” (rape shield laws), ngăn cấm việc sử dụng lịch sử tình dục trước đây của người thưa kiện như một chiến lược bào chữa trước tòa. Brownmiller được cho là đã có công đóng góp cho việc công nhận nạn lạm dụng trẻ em trong gia đình và khái niệm về “cưỡng dâm khi hẹn hò”.

Trong giai đoạn này, nhiều trung tâm hỗ trợ khi bị cưỡng hiếp đã được mở ra, các lớp học tự vệ đã trở nên phổ biến hơn, một số tiểu bang đã viết lại luật để dễ dàng truy tố những kẻ hiếp dâm hơn. Cưỡng bức quan hệ tình dục trong hôn nhân trở thành tội ác. Nhiều khu vực pháp lý đã bãi bỏ “quy tắc nhân chứng xác nhận” – một quy tắc yêu cầu lời khai của người chứng kiến để kết án hiếp dâm (người phụ nữ không nhất thiết được coi là đáng tin cậy).

Cuốn sách đã đem lại cho Brownmiller nhiều vinh quang và lời tán tụng. “Rùng rợn và hoành tráng”, luật sư Mary Ellen Gale viết trong Đánh giá sách của tờ New York Times. Tạp chí Time nhận xét, “Đây là tác phẩm học thuật nghiêm ngặt và khiêu khích nhất từng xuất hiện trong phong trào nữ quyền”. Tạp chí này đã vinh danh Brownmiller là một trong 12 người phụ nữ của năm.

Susan Brownmiller (1935-2025).
Susan Brownmiller (1935-2025).

Song, những lời khen ngợi ban đầu nhanh chóng nhường chỗ cho sự phẫn nộ về tính giáo điều nữ quyền của cuốn sách. Ngay cả những người ngưỡng mộ cũng thấy khó chịu trước lời khẳng định của Brownmiller rằng “tất cả đàn ông” đều đe dọa “tất cả phụ nữ” bằng bạo lực tình dục. Tuyên bố này đã khiến bà bị quấy rối trong các buổi thuyết trình trong nhiều năm. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1999 với báo The Australian, bà giải thích: “Tôi đã nói rằng hiếp dâm là một cơ chế gây sợ hãi với phụ nữ. Chắc chắn không phải tất cả đàn ông đều hiếp dâm và không phải tất cả phụ nữ đều bị hiếp dâm, nhưng tất cả phụ nữ đều biết rằng đó là điều có thể xảy ra với họ”.

Một trong những người chỉ trích bà gay gắt nhất là Angela Davis, một nhà hoạt động dân quyền da đen. Trong một bài phân tích gay gắt, bà Davis cho rằng Brownmiller đã diễn giải sai các vụ án lịch sử liên quan đến đàn ông da đen và phụ nữ da trắng (đặc biệt là các vụ án của Scottsboro Nine và Emmett Till) và đã đi đến kết luận sai lầm rằng đàn ông da đen là bên có lỗi. “Khi chọn đứng về phía phụ nữ da trắng, bất kể hoàn cảnh nào, bản thân Brownmiller đã đầu hàng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc”.

Sau Against Our Will, Brownmiller còn xuất bản thêm nhiều cuốn sách khác. Năm 1984, bà xuất bản Femininity, cuốn sách tìm hiểu những kỳ vọng về ngoại hình và hành vi lý tưởng mà phụ nữ được cho là phải tuân theo. Cuốn tiểu thuyết Waverly Place (1989) dựa trên một vụ bạo lực gia đình có thật xảy ra vào năm 1987 đã ám ảnh bà, về một luật sư ở Manhattan tên Joel Steinberg đã đánh đập dã man người bạn đời Hedda Nussbaum và giết chết cô con gái được nhận nuôi bất hợp pháp của họ. Tác phẩm này không được đánh giá cao và đã manh nha cho thấy một vấn nạn mà sau này những người chỉ trích gọi là đổ lỗi cho nạn nhân, khi Brownmiller lập luận rằng bà Nussbaum không phải nạn nhân thụ động và đáng lẽ phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết của cô gái.

Bà cũng có phát biểu gây tranh cãi vào năm 2015, kỷ niệm 40 năm ngày cuốn sách Against Our Will được xuất bản, khi chỉ trích nặng nề những người phụ nữ trẻ dường như nghĩ rằng họ có thể uống rượu nhiều như đàn ông và ăn mặc khiêu khích nhưng không chịu trách nhiệm nếu họ bị tấn công tình dục. Bà mở rộng quan điểm này trong một cuộc phỏng vấn với Al Jazeera, cho rằng phụ nữ đang “phủ nhận” những điều họ có thể và không thể làm.

“Họ không muốn cảm thấy mình bị áp đặt những hạn chế đặc biệt”, bà nói. Khi người phỏng vấn nói rằng phụ nữ sẽ ngạc nhiên khi nghe điều này, bởi vì họ muốn cảm thấy được trao quyền và tin rằng họ có thể làm gì họ muốn, Brownmiller trả lời: “Phụ nữ có cảm giác sai lầm về quyền lực bởi vì sự thực là họ không thể làm mọi thứ mà đàn ông có thể làm. Bởi vì ngoài kia đầy rẫy những kẻ săn mồi”.

Quan điểm của bà gây sốc cho không ít nhà nữ quyền đương đại. Trong bài phê bình trên trang Slate, nhà hoạt động Amanda Marcotte gọi Brownmiller là “cựu anh hùng nữ quyền”.Marcotte viết bà lẽ ra nên đối thoại với đàn ông và nói về họ, thay vì tin rằng những kẻ hiếp dâm “giống như thời tiết và nạn nhân có lỗi vì đã không mang ô”.

Nguồn:

theguardian, nytimes, washingtonpost

Bài đăng KH&PT số 1351 (số 27/2025)