Được mệnh danh là Cha đẻ của ngành nghiên cứu bệnh lây qua đường tình dục, King K. Holmes đã có cách tiếp cận thực tế với những căn bệnh tế nhị bị xã hội kì thị và cộng đồng khoa học thờ ơ vào những thập niên 60, 70; đồng thời ông đưa ra phương pháp điều trị và phòng ngừa mới.
Những năm 1960 là thời đại của cách mạng tình dục, chất gây nghiện và nhạc rock. Sự tự do mà thuốc tránh thai mang lại và sự thay đổi về phong tục đã bị lu mờ trước cơn bùng phát mạnh mẽ của các căn bệnh lây truyền qua đường tình dục. Nhưng cả bệnh nhân lẫn bác sĩ đều ngần ngại thảo luận về những dấu hiệu lạ xuất hiện tại vùng kín. Hệ lụy là số ca bệnh gia tăng chóng mặt trong dân số, và sau này đại dịch HIV/AIDS bùng nổ, cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người.
Trong bối cảnh thái độ kì thị bệnh lây qua đường tình dục hẵng còn nặng nề trong xã hội, chuyên gia bệnh truyền nhiễm King K. Holmes từ Đại học Washington đã gần như đơn thương độc mã đưa việc nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục ra công luận, biến một chủ đề bị kì thị và ghẻ lạnh thành một lĩnh vực lớn trong nghiên cứu y học.
Thời gian đầu hành nghề y, Holmes không có ý định nghiên cứu những căn bệnh lây lan qua đường tình dục. Lúc đó, ông tham gia Hải quân và được điều động tới đơn vị y tế dự phòng ở Trân Châu Cảng, với vai trò nhà dịch tễ học cho Hạm đội 7 của Hải quân.
Ban đầu, Holmes hình dung mình sẽ nghiên cứu các bệnh nhiệt đới kỳ lạ, chẳng hạn như sốt rét và sốt xuất huyết. Thế nhưng, thực tế hoàn toàn khác biệt với suy nghĩ của ông.
“Khi tôi tới nhậm chức, trên bàn làm việc đã có một chồng báo cáo chờ sẵn về căn bệnh lậu không chữa trị được trong Hạm đội 7”, tiến sĩ Holmes kể lại trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí y khoa The Lancet năm 2007. “Vấn đề dịch tễ chính là bệnh lậu kháng penicillin. Tôi lần đầu tham gia nghiên cứu bệnh lây qua đường tình dục như vậy đấy”.
Ông thực hiện nghiên cứu lớn đầu tiên trên tàu sân bay U.S.S. Enterprise. “Khi tàu cập cảng trong ba hay bốn ngày, những người được nghỉ phép lên bờ và một số trong đó đã quan hệ với lao động tình dục”, Holmes cho biết.
Sau khi tàu rời cảng, hàng trăm thủy thủ sẽ tới khoang y tế với dịch tiết niệu đạo. Tiến sĩ Holmes nảy ra một ý tưởng: điều trị cho những người này bằng một liều kháng sinh duy nhất sau khi quan hệ tình dục. Biện pháp này được gọi là doxy-PEP. Nó được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh và Tổ chức Y tế Thế giới chứng thực và khuyến nghị cho tới ngày nay.
Sau khi phục vụ trong Hải quân, tiến sĩ Holmes tới làm việc tại Đại học Washington vào năm 1967, ban đầu làm bác sĩ lâm sàng và sau này làm nhà nghiên cứu. Những nỗ lực của ông có ảnh hưởng từ cấp địa phương cho tới quốc gia, thậm chí trên toàn cầu.
“Ông ấy đã đưa các căn bệnh lây qua đường tình dục ra ngoài ánh sáng,” Judith Wasserheit, đồng nghiệp của ông tại Đại học Washington, chia sẻ với tờ The Seattle Times vào năm 2013. “King đã thực hiện nghiên cứu tiên phong về hầu hết mọi khía cạnh, mọi bệnh lây qua đường tình dục, mọi chẩn đoán hoặc phương pháp điều trị.”
Tiến sĩ Holmes đã công khai thách thức cộng đồng y khoa phải nỗ lực hơn nữa để đối phó với vấn đề này. Trong các cuộc phỏng vấn, ông gọi tình trạng thờ ơ trong việc nghiên cứu các bệnh lây qua đường tình dục là một “âm mưu im lặng” “ngu ngốc”, “kinh khủng” và “đáng xấu hổ”.
Để đưa thông tin về những căn bệnh này tới đại chúng, ông đã viết cuốn sách đầu tiên có tựa đề “How to Have Intercourse Without Getting Screwed” (tạm dịch: Làm thế nào để quan hệ mà không mắc bệnh) vào năm 1976. Lối viết thẳng thắn, thực tế của ông cùng vô số thông tin hữu ích đã chinh phục người đọc. Cuốn sách này đã nhận được lời khen ngợi từ cộng đồng y khoa.
Thái độ cởi mở của Holmes với những vấn đề mà mọi người thời đó e ngại đã giúp ông tập hợp được các nhóm chuyên gia khác nhau như nhà dịch tễ học, nhà vi sinh vật học và bác sĩ cùng hợp tác nghiên cứu các phương pháp chữa trị và phòng ngừa mới.
Trong đầu những năm 1970, ông thành lập quan hệ đối tác giữa Đại học Washington và Sở Y tế Công cộng Seattle và Quận King để mở một phòng khám điều trị bệnh lây qua đường tình dục, đem lại cơ hội phân tích dữ liệu bệnh nhân cho các nhà nghiên cứu. Liên minh này là hình mẫu cho các mối quan hệ đối tác giữa y tế công cộng và học thuật khác, với mục tiêu chống lại bệnh truyền nhiễm.
Ngoài việc mở các phòng khám bệnh lây qua đường tình dục và đặc biệt là HIV ở Seattle trong cuộc khủng hoảng AIDS vào những năm 1980, ông còn hỗ trợ khởi động một hệ thống giám sát quốc gia về bệnh lậu, xác định những nhóm dân số có nguy cơ mắc bệnh cao nhất, cũng như động lực lây truyền và các mô hình kháng thuốc kháng sinh. Hệ thống này đã góp phần sửa đổi các hướng dẫn điều trị. Tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao và gia tăng bệnh lậu cũng được hệ thống này phơi bày. Nhờ vậy, các nghiên cứu liên quan như tìm ra vaccine phòng bệnh lậu, cũng như các loại thuốc kháng sinh mới đã nhanh chóng được thúc đẩy.
Nghiên cứu HIV đã đưa ông tới khu vực châu Phi cận Saraha và châu Mỹ Latin. Tại đây, ngoài việc đi đầu trong nghiên cứu và đào tạo về căn bệnh thế kỷ, Holmes còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đại chúng và các chuyên gia y tế ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Alaska, gồm cả vùng nông thôn, về những căn bệnh chết người mới được ghi nhận vào thời điểm đó.
Tiến sĩ Holmes đã tiến hành 40 thử nghiệm lâm sàng, xuất bản hơn 548 bài báo và viết 178 chương sách, bài xã luận và bình luận khác... về mọi khía cạnh của bệnh lây qua đường tình dục, HIV, cũng như nhiều bệnh truyền nhiễm khác. Song bản thân Holmes và các đồng nghiệp coi di sản bền vững nhất của ông là 170 nhà khoa học mà ông đã đào tạo và hướng dẫn.
“Người đàn ông này là cha đẻ của lĩnh vực [nghiên cứu bệnh lây qua đường tình dục], và ‘con cháu’ của ông hiện nay là những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này”, tiến sĩ Wasserheit nhận định. “Ảnh hưởng của Holmes rất sâu rộng”.
Trong số học trò của Holmes có tiến sĩ Larry Corey, một chuyên gia quốc tế về virus học, miễn dịch học và phát triển vaccine. Tiến sĩ Holmes đã thành lập Trung tâm ĐH Washington về AIDS và bệnh lây qua đường tình dục; và cùng tiến sĩ Corey thành lập Trung tâm Nghiên cứu AIDS của ĐH Washington. Ông cũng phát triển và đồng lãnh đạo Trung tâm Đào tạo và Giáo dục Quốc tế ĐH Washington về Sức khỏe, một mạng lưới toàn cầu tại hơn 25 quốc gia, được thiết kế để xây dựng năng lực dài hạn trong các hệ thống y tế, cũng như các can thiệp có mục tiêu, dựa trên dữ liệu và nghiên cứu đáp ứng nhu cầu của địa phương.
Với những đóng góp to lớn của mình, tiến sĩ Holmes được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Y khoa Quốc gia và Hiệp hội vì sự tiến bộ của Khoa học Hoa Kỳ và Trường Bác sĩ Hoàng gia.
Nguồn:
nytimes, newsroom
Bài đăng KH&PT số 1340 (số 16/2025)