Nhà sinh hóa người Pháp Étienne-Émile Baulieu là người đi đầu trong việc phát triển thuốc phá thai mifepristone - phương pháp hàng đầu để chấm dứt thai kỳ ở nhiều quốc gia.
Là chuyên gia nghiên cứu về hormone tại phòng thí nghiệm của chính phủ Pháp, tiến sĩ Baulieu đã có một khám phá mang tính cách mạng vào những năm 1970, liên quan đến hormone và một số rủi ro sức khỏe. Sau đó, ông tìm cách khám phá các phương pháp kiểm soát sinh sản mới, gần hai thập kỷ sau khi thuốc tránh thai đường uống đầu tiên là Enovid được phê duyệt sử dụng tại Mỹ vào năm 1960.
Ông thu hẹp phạm vi nghiên cứu về các hormone sinh dục, đặc biệt là progesterone – một hormone thiết yếu cho việc mang thai vì nó chuẩn bị tử cung cho trứng mới thụ tinh. Ông biết Công ty Dược phẩm Pháp Roussel-Uclaf - nơi ông làm cố vấn về phát triển thuốc – sẽ không đầu tư vào loại thuốc hormone sinh dục giúp tránh thai. Thay vào đó, ông thúc đẩy công ty hỗ trợ nghiên cứu về một hợp chất phân tử ngăn chặn cortisone – hormone liên quan đến điều hòa đường huyết, chuyển hóa và ức chế tình trạng viêm. Điều quan trọng đối với Baulieu là cortisone có cấu trúc hóa học tương tự như của progesterone.
TS. Baulieu cho rằng một chất chặn cortisone – được gọi là thuốc kháng glucocorticoid, có thể hữu ích trong quá trình điều trị vết bỏng, vết thương và bệnh tăng nhãn áp. Về tư tâm, ông cũng hy vọng nó sẽ hoạt động như chất kháng progesterone và có hiệu quả trong việc chấm dứt thai kỳ sớm mà không cần phẫu thuật.
Năm 1980, nhà hóa học Georges Teutsch thuộc Công ty Roussel-Uclaf tổng hợp được RU-38486, hay hợp chất thứ 38.486 được tạo ra trong phòng thí nghiệm của công ty này. Hợp chất mới với tên phân tử rút gọn thành RU-486 có khả năng ngăn chặn chức năng của progesterone và cortisone, đúng như TS. Baulieu dự đoán.
Cuối cùng, ông thuyết phục được công ty theo đuổi các thử nghiệm phá thai trên người. Tuy nhiên, trước hết ông phải chứng minh được RU-486 an toàn. Các thử nghiệm độc tính đã khiến ba con khỉ bệnh nặng tới mức phải an tử. TS. Baulieu lập luận rằng loại thuốc này có tác dụng như mong đợi, nhưng liều dùng cho những con khỉ quá cao.
Là chuyên gia về sinh sản, TS Baulieu trở thành thành viên của ủy ban chính phủ đã giúp thay đổi luật của Pháp vào năm 1967, cho phép sử dụng thuốc tránh thai. Sau đó, trong chuyến thăm Ấn Độ vào năm 1970, TS. Baulieu rúng động khi một phụ nữ ăn xin đẩy xác đứa con đã chết của mình vào ông. “Trong chuyến đi ấy, tôi quyết định hướng sự nghiệp đời mình vào việc tìm ra cách nào đó giảm bớt nỗi đau khổ này”, TS. Baulieu nhớ lại.
|
Sau các thử nghiệm lâm sàng – đầu tiện ở Thụy Sĩ, sau đó là Hungary và Thụy Điển – Công ty Roussel-Uclaf đã được Pháp phê duyệt vào năm 1988, cho phép lưu hành trên thị trường để chấm dứt thai kỳ trong vòng 10 tuần sau khi trễ kinh. Trong vòng 48h sau khi uống thuốc RU-486 (tên chung là mifepristone và được tiếp thị là mifeprex tại Mỹ) người dùng sẽ tiếp tục dùng một loại thuốc có tên là misoprostol, có tác dụng gây co bóp tử cung. Hai loại thuốc này cần được bác sĩ kê đơn và có thể dùng tại nhà mà không cần giám sát y tế.
RU-486 là sản phẩm từ nỗ lực của một nhóm, nhưng TS. Baulieu được cho là kiến trúc sư và người ủng hộ chính cho loại thuốc này. Người ta gọi ông là “cha đẻ của thuốc phá thai”. Ông trở thành mục tiêu chỉ trích của các nhà hoạt động chống phá thai.
Năm 1997, Vatican lên án RU-486 là “thuốc của Cain: con quái vật đã tàn nhẫn giết chết em trai của mình”. Ở Canada, người ta dựng tấm biển quảng cáo in hình TS. Baulieu kèm dòng chữ “Truy nã vì tội diệt chủng”. Năm 1988, ông được vệ sĩ bảo vệ trong chuyến đi tới Mỹ. Nhưng, TS. Baulieu cho biết ông nhận được tin nhắn cảm ơn từ những người phụ nữ đã có thể chấm dứt thai kỳ mà không cần phẫu thuật.
Ở Pháp, thái độ chống phá thai của quần chúng mạnh mẽ tới mức Công ty Roussel-Uclaf phải dừng sản xuất loại thuốc này ngay sau khi nó được chấp thuận phân phối. Các cuộc biểu tình diễn ra rầm rộ bên ngoài trụ sở chính của công ty ở Paris. “Các người đang biến tử cung thành lò hỏa táng”, những người biểu tình hô vang, ám chỉ đến việc sản xuất khí độc cho Đức Quốc xã của Hoechst - công ty mẹ sở hữu Roussel-Uclaf.
Với việc sản xuất thuốc bị đình trệ, TS. Baulieu đến Brazil để tham dự một hội nghị y khoa và sự kiện này đã biến thành một lễ cổ động cho RU-486. Tới khi hội nghị kết thúc, Roussel-Uclaf đã khôi phục lại loại thuốc này. Claude Évin, khi đó là Bộ trưởng Y tế Pháp, đã tuyên bố rằng RU-486 là “tài sản đạo đức của phụ nữ”.
Năm 2000, FDA mới phê duyệt mifepristone, chậm hơn một thập kỷ so với Trung Quốc, Nga và nhiều quốc gia khác ở châu Âu. (Mỹ cấm nghiên cứu loại thuốc này làm thuốc phá thai, nhưng nó được nghiên cứu làm phương pháp điều trị các rối loạn nội tiết tố bao gồm hội chứng Cushing). Nước này chậm chân như vậy là do nỗi sợ tẩy chay Công ty Hoechst và bầu không khí chính trị hóa nặng nề xung quanh quá trình phê duyệt.
TS. Baulieu bày tỏ với tờ New Yorker vào năm 2022: “Than ôi, ý thức hệ và chủ nghĩa nam quyền nặng nề hơn lý trí và bằng chứng khoa học”. “Một phương pháp giúp việc chấm dứt thai kỳ ít gây chấn thương về mặt thể chất cho phụ nữ và ít nguy hiểm hơn cho sức khỏe của họ luôn bị những người ủng hộ quyền được sống bác bỏ: Điều họ thực sự muốn làm là gây hại và trừng phạt phụ nữ”.
Ông thường kể lại một trường hợp xảy ra hồi ông làm bác sĩ nội trú ở Paris trong những năm 1950. Một bác sĩ phẫu thuật nạo tử cung cho một phụ nữ tự phá thai đã từ chối gây mê toàn thân cho bệnh nhân và nói điều đó “sẽ dạy cho cô ta một bài học nhớ đời”.
Đi qua chiến tranhÉtienne Blum được sinh ra ở Strasbourg, gần khu vực biên giới Pháp giáp với Đức, vào ngày 12/12/1926. Mẹ ông là một luật sư và nghệ sĩ dương cầm, còn cha ông là bác sĩ, chuyên gia về thận, từng điều trị bệnh tiểu đường cho Vua Fuad I của Ai Cập.
Người cha qua đời khi Étienne mới 3 tuổi, sau đó gia đình chuyển tới Paris. Sau khi quân phát xít Đức chiếm đóng thành phố vào năm 1940, gia đình ông sợ hãi mình sẽ trở thành mục tiêu do dòng máu Do Thái nên đã chạy trốn đến Grenoble ở dãy núi Alps của Pháp.
Tại đây, ông gia nhập Đảng Cộng sản, phát tờ rơi chống Đức và bắn vào đoàn xe của Đức. Vì là thành viên nhỏ nhất trong nhóm, ông được giao nhiệm vụ chụp ảnh các vụ giết người. Khi cơ quan mật vụ Gestapo áp sát, gia đình ông lại chuyển đi đến Annecy ở miền Đông nước Pháp, và đổi họ thành Baulieu, có nghĩa là “nơi xinh đẹp”. TS. Baulieu cũng thêm Émile vào tên mình.
Sau khi quân Đồng minh giải phóng khu vực, ông nhập ngũ. Khi chiến tranh kết thúc, ông đăng ký vào Khoa Y ở Paris (nay thuộc Đại học Paris), tốt nghiệp năm 1951, đi theo bước chân của người cha quá cố.
Ông quay về trường cũ vào năm 1956 với vai trò giáo sư chuyên về nghiên cứu hormone. Sau này ông giảng dạy tại Đại học Paris-Sud.
Trong cuối những năm 1950, TS. Baulieu thực hiện một khám phá quan trọng: một cách tốt hơn để theo dõi một loại hormone tuyến thượng thận khó nắm bắt vào thời điểm đó: dehydroepiandrosterone (DHEA) - có thể là chỉ số của một số bệnh nhất định. Tiến sĩ Baulieu đột nhiên trở thành ngôi sao đang lên trong lĩnh vực này.
Công trình của ông thu hút sự chú ý của Seymour Lieberman, một chuyên gia về steroid tại Đại học Columbia, người đã mời TS. Baulieu đến làm việc cùng ông một năm tại New York. TS. Baulieu đến vào năm 1961, sau khi John F. Kennedy được bầu làm Tổng thống. Những nỗ lực trước đó để xin thị thực Mỹ đã bị chính quyền Eisenhower từ chối, với lý do là mối quan hệ trong quá khứ của ông với những người cộng sản Pháp.
Trong thời gian tại đây, TS. Baulieu được nhà sinh hóa học nổi tiếng Gregory Pincus mời đến Puerto Rico, nơi thuốc tránh thai do Pincus đồng sáng chế đang trải qua thử nghiệm lâm sàng đầu tiên trên người. TS. Baulieu cho biết chuyến đi này đã thay đổi cuộc đời ông. “Tôi nhận ra tác động của sản phẩm nghiên cứu biện pháp tránh thai đối với cuộc sống con người”, ông viết trong hồi ký. “Tôi đã bị cuốn hút, mặc dù tôi vẫn chưa biết điều đó”.
TS. Baulieu nói thêm rằng ban đầu ông “miễn cưỡng” tới đó. “Tôi hơi lo lắng khi những phụ nữ gốc Tây Ban Nha từ một vùng xa xôi nghèo khó được chọn để thử nghiệm lâm sàng (mặc dù các thí nghiệm đầu tiên trên người đã được thực hiện ở Boston). Tôi không có hiểu biết về biện pháp tránh thai. Pincus chỉ giục tôi xem thử, và tôi nghĩ mình đã phát hiện tia sáng trong mắt anh ấy.”
Cuộc thử nghiệm bao gồm những phụ nữ nghèo và mù chữ. Sau cuộc thử nghiệm, một số phụ nữ phàn nàn rằng họ không được thông tin đầy đủ về thuốc tránh thai và các tác dụng phụ tiềm ẩn.
Dư luận ở Puerto Rico phần lớn không tin tưởng vào thuốc tránh thai và những người sáng lập người Mỹ, họ cho rằng quyết định sử dụng phụ nữ thiệt thòi làm đối tượng thử nghiệm là hành vi bóc lột. Ba phụ nữ đã tử vong trong các cuộc thử nghiệm, nhưng không rõ thuốc tránh thai có phải là nguyên nhân hay không. Nhà sử học của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Suzanne Junod nói với tờ The Washington Post rằng Pincus tin tưởng mạnh mẽ vào hiệu quả và độ an toàn của thuốc tránh thai đến mức ông đã đề nghị các thành viên nữ trong gia đình dùng thuốc tránh thai.
Khi trở về Pháp, TS. Baulieu đảm nhận các vị trí tại cơ quan nghiên cứu và y tế, và ông là cố vấn cho Roussel-Uclaf theo một thỏa thuận cho phép ông sử dụng các phòng thí nghiệm tiên tiến của công ty. Pincus đã sắp xếp để TS. Baulieu tham gia một hội thảo của Tổ chức Y tế Thế giới tập trung vào các vấn đề về tình trạng quá tải dân số và sinh sản.
Một bước đột phá đối với TS. Baulieu đến vào giữa những năm 1970, khi Pháp hợp pháp hóa phá thai. Ông làm việc với một học giả thỉnh giảng nghiên cứu về tamoxifen, một loại thuốc chống ung thư vú bằng cách ngụy trang thành estrogen và bám vào các thụ thể hormone của cơ thể - về cơ bản trở thành thuốc kháng estrogen. Ông viết rằng “Đây là tác dụng mà chúng tôi muốn có đối với progesterone”.
Năm 1989, TS. Baulieu nhận được Giải thưởng Lasker - thường được gọi là Giải Nobel của Mỹ, cho công trình nghiên cứu về mifepristone của ông.
Sau công trình nghiên cứu về mifepristone, TS. Baulieu bắt tay vào nghiên cứu về bệnh trầm cảm và bệnh Alzheimer, và ông đã khám phá ra sức mạnh chống lão hóa tiềm tàng của DHEA, loại hormone giúp sự nghiệp của ông thăng hoa.
Trong cuốn sách “The Abortion Pill” viết năm 1991, TS. Baulieu viết rằng: “Tôi không thích phá thai. Nhưng tôi cũng không tin rằng phụ nữ nên bị tước mất những quyền lợi cơ bản nhất của họ”.
Nguồn:
Washingtonpost.com
Bài đăng KH&PT số 1349 (số 25/2025)