Việt Nam có cơ hội trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng năng lượng sạch toàn cầu, bắt đầu từ việc xây dựng các Trung tâm công nghiệp dịch vụ cho điện gió ngoài khơi.

Việt Nam có thể tận dụng kinh nghiệm từ ngành dầu khí để thúc đẩy điện gió ngoài khơi. Ảnh: PVN
Việt Nam có thể tận dụng kinh nghiệm từ ngành dầu khí để thúc đẩy điện gió ngoài khơi. Ảnh: PVN

Quy hoạch phát triển điện VIII đặt mục tiêu thành lập hai Trung tâm công nghiệp và dịch vụ năng lượng tái tạo (RE Hub) trước năm 2030. Theo hình dung, các Trung tâm này sẽ là nơi tích hợp sản xuất điện tái tạo; sản xuất các thiết bị, linh kiện, cấu phần cho nhà máy điện tái tạo; và cung cấp cơ sở hạ tầng hậu cần liên quan. Đồng thời, một số khu vực trong Trung tâm có thể đóng vai trò là nơi triển khai những nghiên cứu phát triển tiên tiến mới, hoặc thực hiện đào tạo nhân lực.

Báo cáo được chia sẻ vào đầu tháng 6/2025, do Tổ chức phát triển Đức (GIZ) thực hiện dưới sự ủy quyền của Bộ Công thương, cho thấy Việt Nam đang hội tụ một số yếu tố thuận lợi để xây dựng một RE Hub cho điện gió ngoài khơi.

Chúng bao gồm tiềm năng gió tốt (dẫn đầu ASEAN với tiềm năng kỹ thuật 600GW), Chính phủ có mục tiêu phát triển nguồn điện tham vọng (lên đến 17 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2035), thị trường có nhu cầu về sử dụng năng lượng tái tạo ngày càng cao (với trọng tâm ở miền Bắc và miền Nam), có hạ tầng cảng biển và các khu công nghiệp gần đó, có năng lực sản xuất một số khâu trong chuỗi giá trị điện gió (chế tạo chân đế, máy biến thế,v.v), khả năng tận dụng cơ sở hạ tầng dầu khí sẵn có (tàu, cảng, kho bãi, xưởng chế tạo, thiết bị cẩu kéo lớn v.v), có thể chuyển đổi nhiều kinh nghiệm quan trọng từ ngành dầu khí ngoài khơi cho các dự án điện gió ngoài khơi.

Tuy nhiên, để hiện thực hóa tiềm năng đó và biến các lợi thế thành giá trị kinh tế cụ thể, Việt Nam cần một chiến lược bài bản – trong đó, không thể thiếu những nghiên cứu chuyên sâu để xác định các đặc điểm của mô hình RE Hub phù hợp với đất nước.

“Mặc dù không quốc gia nào giống quốc gia nào nhưng có những bài học khá quan trọng mà chúng ta có thể xem xét”, TS. Ralf Leutz, một trong những tư vấn viên chịu trách nhiệm xây dựng báo cáo đầu tiên của GIZ, cho biết.

Báo cáo thứ nhất xem xét bài học tại sáu địa điểm đã hoặc đang trong quá trình phát triển các trung tâm sản xuất, lắp ráp và hậu cần phục vụ ngành điện gió ngoài khơi là Sán Đầu (Trung Quốc), Đài Trung (Đài Loan Trung Quốc), Gwangyang (Hàn Quốc), Newcastle (Australia), Esbjerg (Đan Mạch) và Cuxhaven (Đức).

Các trung tâm này đều bắt đầu bằng một cảng biển, và từ đó xây dựng nên đế chế công nghiệp hàng triệu đô. Với địa hình của mình, TS. Ralf Leutz cho rằng Việt Nam cũng có thể tiếp cận theo cách tương tự - xây dựng RE Hub như những vòng tròn mở rộng quanh cảng biển, lấy cảng làm điểm neo, từ đó hình thành các cụm sản xuất trong vòng bán kính 100 km hoặc hơn, bao gồm cả nhà sản xuất thiết bị gốc (OEM) và các nhà cung cấp từ cấp 1 đến cấp 3.

Tuy nhiên, không nhất thiết phải gom toàn bộ chuỗi cung ứng sản xuất thiết bị điện gió vào một điểm duy nhất. Thay vào đó, các mắt xích sản xuất có thể được bố trí một cách chiến lược dựa trên hạ tầng logistics hiện có, lợi thế công nghiệp từng địa phương và khả năng kết nối. Bán kính 100 km quanh cảng cho phép không gian để làm điều đó.

Chẳng hạn, các nhà sản xuất thiết bị gốc OEM và nhà cung cấp cấp 1 - vốn chịu trách nhiệm về thiết kế và lắp ráp các cấu kiện quan trọng như turbine, nacelle, trụ tháp, và móng tuabin - nên được đặt gần các cảng biển lớn để tiện cho vận chuyển thiết bị cồng kềnh. Chúng cần không gian rộng cho việc vận hành và bảo trì. Do vậy quỹ đất và chi phí mặt bằng để xây dựng vùng trung tâm của các RE Hub sẽ là điều cần xem xét. Những cái tên nổi bật trong danh sách ứng cử viên có thể là Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình ở miền Bắc; và Vũng Tàu, Ninh Thuận, Bình Thuận, TP.HCM ở miền Nam. Dĩ nhiên, các nhà nghiên cứu sẽ thực hiện các khảo sát tiếp theo để xác định xem địa điểm nào là tối ưu nhất với mọi ràng buộc.

Ngược lại, các nhà cung cấp cấp 2 và 3 có thể phân bố linh hoạt, thậm chí nằm rải rác trên cả nước. Các công ty này sẽ chuyên sản xuất những cụm linh kiện phụ như hệ thống điều chỉnh góc cánh, các thiết bị bên trong trụ tuabin, các linh kiện phụ nhỏ hơn như động cơ, bu lông, bánh răng, cảm biến v.v Miễn là được kết nối tốt với Trung tâm RE Hub, thì khoảng cách sẽ không phải là rào cản lớn. Cách tổ chức chuỗi cung ứng “đa điểm, linh hoạt” này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, mà còn tận dụng được tối đa nguồn lực công nghiệp sẵn có tăng tỷ lệ nội địa hóa.

Một điều mà các tư vấn viên GIZ khơi gợi là việc kết hợp sản xuất cho các lĩnh vực công nghiệp năng lượng tái tạo khác nhau. Theo họ, RE Hub của điện gió ngoài khơi không nhất thiết phải là “đại bản doanh” duy nhất của công nghệ này.

Mặc dù thực tế, mỗi công nghệ năng lượng tái tạo lại có “gu” riêng về địa điểm sản xuất - chẳng hạn như điện gió cần các địa điểm gần cảng để vận chuyển các cấu kiện khổng lồ, trong khi điện mặt trời, pin lưu trữ hay các thiết bị điện tử công suất lại ưa đặt ở những khu công nghiệp có sẵn chuỗi cung ứng linh kiện và nhân lực công nghệ cao nằm sâu trong nội địa như Bắc Giang, Bắc Ninh hay Bình Dương.

Tuy vậy, nếu biết cách thiết kế thông minh, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng các RE Hub đa chức năng – nơi các chuỗi giá trị của nhiều công nghệ tái tạo có thể “gối đầu” lên nhau. Sự giao thoa này sẽ giúp tận dụng chung hạ tầng, chia sẻ nhà máy, giảm chi phí đầu tư, và tăng hiệu suất sử dụng nguồn lực.

Để làm được điều đó, sẽ cần những chính sách công nghiệp đủ hấp dẫn để các nhà sản xuất thuộc các công nghệ khác nhau đồng thuận cùng đóng đô tại một khu vực. Còn nếu không thể tích hợp, thì bài toán đặt ra là quy hoạch riêng từng cụm sản xuất – mỗi cụm phù hợp với đặc thù công nghệ, nhưng vẫn giữ kết nối hiệu quả với mạng lưới các RE Hub.

Ràng buộc thứ ba mà theo các chuyên gia quốc tế cũng không kém phần quan trọng là vấn đề tiêu thụ điện. Điện sản xuất từ các trang trại gió ngoài khơi thường được truyền tải về điểm đất liền gần nhất. Từ đây, nguồn điện có thể được sử dụng theo nhiều cách: lưu trữ để sử dụng sau, hòa vào lưới quốc gia, cung cấp trực tiếp cho các trung tâm RE Hub và khu công nghiệp lân cận, hoặc dùng để sản xuất hydrogen xanh.

TS. David Jacobs, thành viên nhóm nghiên cứu, chia sẻ rằng trong quá trình trao đổi với hai đơn vị lớn đang có tiềm năng dẫn dắt các dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam, ông ghi nhận một mối quan ngại lớn từ phía EVN: nguồn điện từ các dự án điện gió ngoài khơi sẽ phải đồng thời đáp ứng hai nhiệm vụ là bổ sung nguồn cung điện đang thiếu hụt nghiêm trọng ở miền Bắc và hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi sang “sản xuất xanh” của các doanh nghiệp trong nước.

Với mỗi lo ngại, các chuyên gia đề xuất những hướng đi riêng biệt nhưng mang tính chiến lược. Trong vấn đề thiếu điện ngắn hạn, giải pháp là xây dựng các tổ máy phát điện (kèm theo hệ thống pin lưu trữ) tại các nút lưới cụ thể, cùng với thiết lập các Khu phát triển năng lượng tái tạo (REDZ) – một mô hình đã được Nam Phi áp dụng hiệu quả – nhằm rút ngắn thời gian cấp phép và kết nối lưới.

Còn với mục tiêu phục vụ “sản xuất xanh” nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và đáp ứng tiêu chuẩn carbon ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế, TS. David Jacobs dẫn chứng rằng trong các cuộc đấu giá điện của EU, các trung tâm RE Hub phải có cam kết dùng điện sạch để sản xuất các thiết bị năng lượng tái tạo, do đó họ sẽ cần quy hoạch hệ thống điện gió ngoài khơi sao cho thuận tiện với việc truyền tải điện trực tiếp đến các đơn vị sản xuất, cung cấp trong khu vực của mình. Đi kèm sẽ là việc khuyến khích doanh nghiệp ký kết các hợp đồng mua bán điện tái tạo trực tiếp (DPPA) và xây dựng cơ chế giao dịch chứng chỉ điện sạch (I-REC) – tương tự như hệ thống đang vận hành tại EU.

“Đây chỉ là những phác thảo bước đầu. Tất cả những chi tiết - bao gồm lựa chọn vị trí RE Hub phù hợp để mở rộng chuỗi giá trị nội địa, xác định các hợp phần chính trong của mô hình tích hợp của Trung tâm, và xây dựng khung chính sách thúc đẩy việc triển khai các trung tâm này - sẽ có trong các nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi trong năm nay”, nhóm nghiên cứu GIZ nói thêm.

Bài đăng KH&PT số 1350 (số 26/2025)