Dù không phải đối mặt với động đất thường xuyên như Nhật Bản hay các quốc gia khác nằm trong vành đai Thái Bình Dương, song, Việt Nam vẫn luôn thường trực nguy cơ xảy ra động đất và đòi hỏi phải tăng cường kỹ năng ứng phó cũng như khắc phục hậu quả khi thảm họa thiên nhiên này xảy ra.
Bản đồ chấn tâm các trận động đất ghi nhận được trên lãnh thổ và thềm lục địa Việt Nam thời kỳ 1131-2017: động đất có độ lớn từ M0.7 trở lên. Ảnh: NVCC
Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Phương - Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Vật lý địa cầu, động đất, núi lửa và sóng thần là các dạng tai biến thiên nhiên mang tính hủy diệt và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, động đất là hiện tượng nền đất đang rung động nhẹ trở nên chấn động mạnh dữ dội do sự dịch chuyển đột ngột của các lớp đất đá bên dưới bề mặt Trái đất. Các chấn tâm động đất thường tập trung trên những đới hẹp và kéo dài gọi là các vành đai động đất, hay còn gọi là các vành đai lửa. “Ba vành đai động đất lớn nhất hành tinh là vành đai Thái Bình Dương, vành đai Địa Trung Hải – Hymalaya và kéo dài theo dải núi ngầm từ Bắc Băng Dương, qua Đại Tây Dương, xa mãi về phía Nam”, PGS.TS Nguyễn Hồng Phương cho hay tại bài giảng đại chúng “Động đất, sóng thần: Nguy cơ và cách ứng phó, kinh nghiệm dành cho Việt Nam” do Trung tâm Thông tin - Tư liệu phối hợp với Viện Vật lý địa cầu (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) tổ chức.
Giải thích thêm về khả năng phá hủy của động đất, PGS.TS Nguyễn Hồng Phương cho biết, các tác động chủ yếu là do sự rung động nền rất mạnh gây ra. Do sự chấn động nền dữ dội, các tòa nhà thấp và cao tầng, các tòa tháp và những cột trụ có thể bị nghiêng đi, nứt nẻ, lung lay hoặc sụp đổ. Đường giao thông, đường sắt và những cây cầu có thể bị bẻ gẫy; đường ống dẫn nước và những công trình xây dựng khác có thể bị xê dịch khỏi vị trí của chúng; đê đập và những kết cấu tương tự có thể bị phá hủy, gây ngập lụt và tạo ra những dòng vật chất trôi nổi. Động đất cũng có thể gây ra những hiểm họa thứ cấp như hóa lỏng nền (hiện tượng gây ra sự sụt lún nền đất ngay ở phía trên các lớp cát bị hóa lỏng, khiến cho các công trình xây dựng trên các vị trí này bị sụt lún hay nghiêng theo) và trượt lở nền (có thể xuất hiện dưới dạng đá rơi, sự trượt hay lan tỏa theo chiều ngang của khối đất đá).
Vậy Việt Nam có an toàn không? Và an toàn ở mức độ nào? Theo ông Đinh Quốc Văn - Phó Trưởng phòng Quan sát Động đất (Viện Vật lý Địa cầu), tại Việt Nam, động đất có thể diễn ra với các nguyên nhân bao gồm: vận động kiến tạo (đứt gãy), phun trào núi lửa, sập các hang động ngầm, hoạt động nhân sinh (hồ chứa, khoan hút dầu khí, khai thác mỏ,...). Nhìn chung, động đất ở Việt nam thuộc loại nhỏ và trung bình có độ lớn phổ biến nhất là M=2.5 và M=4.1 và có chấn tiêu nằm trong lớp vỏ Trái Đất. Các số liệu quan trắc bằng máy cho thấy trong khoảng thời gian 13 năm trở lại đây (2005- 2017), động đất ở Việt Nam chủ yếu phát sinh trên ba khu vực là Tây Bắc Bộ, Trung Bộ (khu vực Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam) và trên vùng biển thềm lục địa phía đông nam đất nước[1]. Trong đó, Tây Bắc Bộ là khu vực có khả năng phát sinh động đất cao nhất cả nước do sự xuất hiện của nhiều các đới đứt gãy kiến tạo hoạt động mạnh như các đứt gãy Điện Biên - Lai Châu, đứt gãy Sông Mã. Động đất cũng có thể sinh ra do các tác động kích thích đến nền địa chất, điển hình là những trận động đất diễn ra liên tục trên vùng thềm lục địa phía đông nam đất nước, khu vực bể dầu khí Cửu Long, thủy điện Sông Tranh 2 huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam và thủy điện A Lưới, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Cho đến nay, có thể kể đến ba trận động đất mạnh nhất đã diễn ra tại Việt Nam, trong đó một trận động đất lịch sử diễn ra vào thế kỷ 14, và hai trận động đất mạnh được ghi nhận bằng máy diễn ra tại Điện Biên vào năm 1935 (độ lớn M=6.7) và Tuần Giáo vào năm 1983 (độ lớn M=6.7). Các kết quả nhận được cho thấy Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có tính địa chấn thấp trên thế giới, tuy nhiên, Việt Nam vẫn tiềm ẩn những nguy cơ động đất với cường độ lớn, nhất là khi các đô thị đông đúc hiện nay đang nằm trên các khu vực nhạy cảm phát sinh động đất. “Nếu những trận động đất mạnh tương tự xảy ra ở Hà Nội thì thiệt hại sẽ ở mức như thế nào?”, PGS.TS Nguyễn Hồng Phương đặt câu hỏi. “Chính vì thế, chúng ta phải nghiên cứu các hệ thống đứt gãy hoạt động có khả năng sinh chấn để chuẩn bị biện pháp phòng ngừa”.
Giải pháp nào ứng phó?
Cho đến nay, việc dự báo động đất trung - dài hạn thường được thể hiện dưới dạng các bản đồ phân bố không gian các vùng có độ nguy hiểm động đất khác nhau. Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Phương, kể từ phiên bản đầu tiên năm 1985, cho đến thời điểm hiện tại, sáu thế hệ bản đồ nguy hiểm động đất lãnh thổ Việt Nam đã được xuất bản, trong đó bản năm 2019 là phiên bản mới nhất. Bên cạnh đó, các chuyên gia của ngành Vật lý địa cầu cũng đã xây hơn hơn 125 kịch bản sóng thần phát sinh trên khu vực Biển Đông.
Động đất Điện Biên 19/2/2001. Ảnh: NVCC
Tuy nhiên, cho đến hiện nay, không có cách nào dự báo ngắn được động đất (tức dự báo vị trí, thời gian gần xảy ra một trận động đất), theo TS. Bùi Thị Nhung - Viện Vật lý địa cầu. Đây là thực tế không chỉ ở Việt Nam mà còn ở tất cả các quốc gia trên thế giới. “Hầu hết các nghiên cứu hiện tại đều đang tập trung theo hướng nhằm phát hiện ra các bất thường từ các dữ liệu địa vật lý sau khi các trận động đất hoặc các vụ phun trào đã xảy ra”, TS. Phạm Thành Sơn (Đại học Quốc gia Úc) chia sẻ với Báo KH&PT trong một cuộc phỏng vấn gần đây. “Tuy nhiên, các kỹ thuật để thu thập các tín hiệu địa vật lý ‘nhạy cảm’ đó theo thời gian thực là chưa khả thi”. Đó là lý do cảnh báo gần đây về siêu động đất tại Nhật Bản đã không hề diễn ra như dự đoán đưa ra bởi nhà chức trách.
Do đó, việc trang bị kiến thức về động đất và chuẩn bị sẵn sàng các kỹ năng ứng phó là chìa khóa cho sự an toàn của con người, giảm thiểu thiệt hại khi động đất xảy ra. “Chúng tôi đã đưa ra những kết quả và đề xuất, nhưng cho đến lúc này thì những phản hồi đối với những yêu cầu này tôi nghĩ rằng vẫn chưa đủ”, PGS.TS Nguyễn Hồng Phương thẳng thắn cho biết. “Chúng ta đã biết rằng trên lãnh thổ Việt Nam đã từng xảy ra những trận động đất rất mạnh ở vùng Tây Bắc như trận ở Điện Biên năm 1935 và Tuần Giáo năm 1983. Vì vậy, việc đầu tiên là cần có những biện pháp rõ ràng, thiết thực để kháng chịu động đất tại vùng Tây Bắc. Điều này bao gồm thiết kế các công trình kháng chấn và nâng cao nhận thức người dân về hiểm họa từ động đất”. Cụ thể, các công trình, nhà cửa cần được xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kháng chấn để đảm bảo đủ khả năng chịu lực, không bị hư hại về kết cấu cũng như hư hỏng các thiết bị đồ đạc sử dụng trong công trình, giúp các tòa nhà này tồn tại và đứng vững trong động đất
Đối với việc nâng cao nhận thức, tại Việt Nam, trước đây, đã có một số hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn kỹ năng ứng phó cho cộng đồng tại vùng tâm chấn sau mỗi động đất lớn xảy ra, “tuy nhiên các hoạt động này mới ở bước nhỏ lẻ, mang tính tình thế của các cơ quan chuyên môn”, TS. Bùi Thị Nhung cho biết. “Hiện nay, chúng ta đang quá coi nhẹ vấn đề tuyên truyền cho người dân”, PGS.TS Nguyễn Hồng Phương nhận định. Từ năm 2021, sau một loạt các trận động đất xảy ra tại Mộc Châu, Cao Bằng, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã chỉ đạo Viện Vật lý địa cầu thực hiện nhiệm vụ: “Nghiên cứu xây dựng, thiết kế các tài liệu và tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền phổ biến kiến thức, kỹ năng về phòng tránh động đất cho cộng đồng”.
Các chuyên gia của Viện Vật lý địa cầu đã phối hợp với các địa phương tổ chức các hội thảo tuyên truyền phổ biến kiến thức về động đất và các kỹ năng phòng tránh rủi ro do động đất cho cộng đồng. Gần đây nhất, vào tháng 8/2024, Viện Vật lý địa cầu đã cử Đoàn công tác đi thực địa tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, phối hợp tuyên truyền và hướng dẫn các kỹ năng ứng phó khi động đất xảy ra cho người dân tại khu vực tâm chấn động đất M=5.0. Song, “cần sớm có thêm các tài liệu tuyên truyền phù hợp với những vùng sâu, vùng xa, miền núi, đáp ứng tình hình thực tế, cũng như tiếp tục làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục, phổ cập kiến thức cho người dân, rèn luyện kỹ năng cho các lực lượng: diễn tập, lồng ghép, tích hợp kiến thức, kỹ năng ứng phó động đất, đưa vào chương trình giáo dục, các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm trong các cơ sở giáo dục”, TS. Bùi Thị Nhung đề xuất.
Và về lâu dài, bên cạnh việc tuyên truyền kiến thức về động đất, sóng thần, theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Phương, các nhà khoa học cần được trao thêm công cụ và công nghệ để ghi nhận động đất, tăng cường hiệu quả việc nghiên cứu và dự báo về động đất. “Trên toàn lãnh thổ Việt Nam hiện chỉ có 30 trạm ghi động đất - một con số rất ít (Trung Quốc có 5000-6000 trạm ghi động đất). Mỗi trạm lại cách nhau khoảng 50 km nên chỉ ghi nhận được những trận động đất mạnh, còn các trận nhỏ thì không thể, do đó việc nghiên cứu rất khó khăn”, ông cho hay. “Ví dụ ở Sơn La, nếu có thủy điện thì cần theo dõi các trận động đất nhỏ. Lúc đó, các trạm của EVN có thể bỏ tiền đầu tư, nhưng chúng sẽ không tồn tại lâu dài và không chính quy theo quy chế nhà nước”. Chưa kể đến, mạng lưới trạm địa chấn phân bố rất khác biệt: miền Bắc dày đặc, còn miền Trung và miền Nam gần như trống trơn, không có trạm.
Ngoài máy móc thiết bị, ông cho rằng điều quan trọng là phải đào tạo về hiểm họa động đất, sóng thần ở trường đại học. “Tại Việt Nam, không có một trường đại học nào dạy về động đất một cách chuyên sâu. Trong khi đó, ở Philippines, Indonesia, Malaysia, Nhật Bản, họ có những trường đại học như vậy rất chuyên sâu và đào tạo ra những chuyên gia rất giỏi”, PGS.TS Nguyễn Hồng Phương chia sẻ.
Và cuối cùng, để ứng phó tốt, điều quan trọng là sự phối hợp giữa tất cả các hệ thống, từ Viện Vật lý địa cầu đến hệ thống của quân đội, rồi tàu thuyền, máy bay, để hỗ trợ cứu người và sơ tán. Tất cả phải tạo thành một mạng lưới vận hành rất trơn tru từ đầu nguồn là người phát hiện ra động đất, sóng thần cho đến cuối nguồn là những người ứng phó, cũng như trung tâm thông tin dữ liệu ở giữa các bên”, PGS.TS Nguyễn Hồng Phương đề xuất.
------
[1] Những kết quả mới trong nghiên cứu động đất và sóng thần ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường”, DOI: 10.15625/vap.2019.000118
Bài đăng KH&PT số 1326 (số 2/2025)