Là công cụ cực kỳ quan trọng để quản lý chất lượng hàng hóa, song, các tiêu chuẩn và quy chuẩn tại Việt Nam vẫn đang gây lúng túng cho nhiều doanh nghiệp và cơ quan quản lý, thậm chí còn trở thành rào cản kinh doanh, trong khi đó lại không phát huy được vai trò bảo vệ người tiêu dùng trong một số trường hợp.

Đầu tháng tư, thông tin về đường dây sản xuất gần 600 loại sữa giả ở Việt Nam bị phanh phui đã khiến người tiêu dùng bàng hoàng. Cơ quan chức năng đã thu giữ 84 loại sản phẩm sữa bột, trong đó 12 loại được xác định là hàng giả do chỉ tiêu chất lượng một số chất chính chỉ đạt dưới 70% so với mức công bố. Trong số các nạn nhân của những hộp sữa giả ấy, không ít người là bệnh nhân vừa trải qua phẫu thuật, trẻ em cần được bổ sung dưỡng chất hay người già không hấp thụ được các thức ăn thông thường mà cần phải sử dụng sữa để nạp năng lượng.

Điều đáng chú ý là trong suốt hơn ba năm hoạt động (từ 2021 đến 2024), các công ty trong hệ sinh thái sản xuất sữa giả này không hề bị phát hiện, cho thấy những bất cập trong việc quản lý chất lượng cũng như hậu kiểm và giám sát liên ngành. Vụ bê bối này không chỉ khiến người dân hoang mang về chất lượng các sản phẩm đang lưu thông trên thị trường mà còn đặt ra một câu hỏi lớn về hiệu quả của các quy định quản lý và công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm của các cơ quan chức năng.

Những quy định chưa hiệu quả

Tính hiệu quả của các quy định pháp lý liên quan đến chất lượng sản phẩm nói chung và các tiêu chuẩn (tự nguyện áp dụng), quy chuẩn kỹ thuật (bắt buộc phải tuân thủ) nói riêng cũng chính là chủ đề đã được các doanh nghiệp và cơ quan quản lý thảo luận suốt nhiều năm qua. Ai cũng biết rằng, các quy định này được đưa ra nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các sản phẩm kém chất lượng. Thế nhưng, nếu quy định không phù hợp với thực tiễn hay không nhắm đến đúng đối tượng hoặc quy trình cần giám sát thì sẽ có thể mang lại tác dụng ngược: vừa gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, lại vừa bỏ lọt các sản phẩm kém chất lượng. Và vụ việc sữa giả vừa qua có lẽ là một ví dụ tiêu biểu.

Người dân mua hàng tại một siêu thị ở TP.HCM. Ảnh: Shutterstock
Người dân mua hàng tại một siêu thị ở TP.HCM. Ảnh: Shutterstock

Phân tích về sự việc này, ông Nguyễn Hồng Uy - Trưởng nhóm Kỹ thuật Tiểu ban Thực phẩm Dinh dưỡng, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho biết, có hàng trăm sản phẩm đã được cơ quan quản lý cấp giấy đăng ký, trong đó xác nhận sản phẩm phù hợp với quy chuẩn, nhưng thực tế lại là hàng giả. Từ đó, ông đặt ra câu hỏi: việc đăng ký công bố hợp quy (công bố sản phẩm phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật) có giá trị trong quản lý chất lượng hay không?

“Các cơ quan quản lý nhà nước chủ yếu tập trung vào kiểm soát thủ tục công bố hợp quy (tiền kiểm), ít chú trọng hậu kiểm. Trong khi đó, những kẻ làm hàng giả thì sử dụng giấy đăng ký hợp quy do cơ quan quản lý nhà nước cấp để đánh lừa người tiêu dùng là ‘chất lượng và an toàn sản phẩm đã được chứng nhận bởi cơ quan quản lý nhà nước’”, ông Uy phân tích tại hội thảo do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức vào cuối tháng tư.

Mặt khác, quy định này cũng lại làm phát sinh thêm nhiều chi phí không cần thiết, theo nhận xét của đại diện một số doanh nghiệp. Trung bình mỗi một sản phẩm để công bố hợp quy thì chi phí đánh giá và chi phí lấy mẫu phân tích sẽ dao động từ 3 đến 5 triệu đồng/sản phẩm. “Một doanh nghiệp thường có 300 đến 500 sản phẩm, như vậy họ sẽ mất khoảng hơn một tỷ đồng chi phí không cần thiết”, TS. Nguyễn Xuân Dương - Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam nhận xét trong một hội thảo khác cuối tháng ba.

Báo cáo “Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2024” và “Đánh giá chất lượng và khuyến nghị cho việc xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam” mới được VCCI công bố cuối tháng tư đã làm rõ hơn những vướng mắc liên quan đến việc quản lý chất lượng sản phẩm cũng như việc xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn. Để đánh giá chất lượng của các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, nhóm thực hiện báo cáo sử dụng các tiêu chí chung để đánh giá chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, gồm sự cần thiết, tính hợp lý, tính thống nhất, tính khả thi, tinh minh bạch, đúng trình tự thủ tục.

“Qua quan sát, chúng tôi nhận thấy một số trường hợp, cơ quan nhà nước đưa ra các mục tiêu chính sách khác cho quy chuẩn như nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm, hàng hóa (ví dụ QCVN 20:2019/BKHCN về Thép không gỉ) hoặc nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm (ví dụ, chỉ tiêu xỉ hạt lò cao để sản xuất xi măng trong QCVN 16:2023/BXD về Sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng). Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rằng quy chuẩn kỹ thuật hầu như không có tác dụng như vậy. Trong khi đó, chi phí tuân thủ và tác động tiêu cực về mặt kinh tế của các quy chuẩn kỹ thuật này là hiện hữu”, báo cáo chỉ ra.

Hiện nay có một thực tế là nhiều chỉ tiêu được đưa vào quy chuẩn kỹ thuật không nhằm mục đích bảo đảm an toàn mà nhằm các mục tiêu khác như phản ánh chất lượng của sản phẩm, hàng hóa đó. Theo VCCI, tình trạng trộn lẫn các chỉ tiêu bảo đảm an toàn và các chỉ tiêu khác trong các quy chuẩn kỹ thuật diễn ra khá phổ biến, xuất hiện ở nhiều loại sản phẩm, hàng hóa.

Các ví dụ thực tế như quy chuẩn về pin lithium (QCVN 101:2020/BTTTT về Pin lithium cho thiết bị cầm tay) và giấy vệ sinh (QCVN 09:2015/BCT về Sản phẩm khăn giấy và giấy vệ sinh) cho thấy sự thiếu hợp lý trong việc thiết lập các chỉ tiêu. Pin lithium có thể gây mất an toàn do phản ứng hóa học sinh nhiệt, dẫn đến cháy nổ hoặc bỏng. Tuy nhiên, quy chuẩn lại bao gồm các chỉ tiêu về dung lượng và khả năng sạc nhanh. Tương tự, giấy vệ sinh có thể gây mất an toàn nếu chứa hóa chất độc hại, nhưng quy chuẩn lại thêm các chỉ tiêu về độ bền dai và khả năng thấm nước - vốn không liên quan đến việc quản lý an toàn song lại gây phát sinh thêm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

Một vấn đề khác được phản ánh là tình trạng trùng lặp không cần thiết của các phép đo. Theo các doanh nghiệp, có những trường hợp phép đo có bản chất tương tự nhau mà kết quả của phép đo trước hoàn toàn có thể được sử dụng cho sản phẩm sau. Tuy nhiên, quy định pháp luật vẫn yêu cầu lặp lại các phép đo này, gây tốn kém cho doanh nghiệp, chẳng hạn như việc lặp lại phép đo với kiểu dáng sản phẩm tivi và dây cáp điện công nghiệp. “Nguyên nhân có thể do trong quá trình soạn thảo quy chuẩn, các cơ quan không xem xét đến chi phí thử nghiệm”, nhóm thực hiện báo cáo lý giải.

Ngược lại, có một tình huống “oái oăm” là quy chuẩn kỹ thuật có hiệu lực nhưng không có hoặc không đủ đơn vị đánh giá sự phù hợp để chứng nhận cho sản phẩm. “Một số ví dụ tiêu biểu là không có đơn vị đủ năng lực thử nghiệm công nghệ 5G, thiếu đơn vị thử nghiệm thuốc thú y, không đủ năng lực thử nghiệm máy phát điện xoay chiều sử dụng động cơ đốt trong pít-tông (piston)”, báo cáo chỉ ra. “Điều này sẽ gây rủi ro rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có thể khiến cho hàng hóa bị ách tắc hoặc độc quyền cung cấp dịch vụ đánh giá sự phù hợp”.

Làm sao để cải thiện?

Trước những hạn chế kể trên, đại diện nhiều doanh nghiệp cho rằng, Việt Nam nên thay đổi cách quản lý chất lượng và đi theo thông lệ quốc tế. Theo ông Nguyễn Hồng Uy, giải pháp khả thi là bãi bỏ thủ tục công bố hợp quy và áp dụng mô hình của quốc tế: doanh nghiệp công bố quy chuẩn áp dụng cho sản phẩm; cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát theo quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý xây dựng hướng dẫn hậu kiểm theo quản lý rủi ro để các địa phương thực hiện thống nhất.

Phân tích thêm về cách quản lý rủi ro, ông Uy cho rằng, việc phân loại hàng hóa thành hai nhóm - nhóm 1 (không có rủi ro) và nhóm 2 (có rủi ro, phải công bố hợp quy, kiểm tra nhà nước khi nhập khẩu) cũng không phù hợp với thế giới vì thực tế không có sản phẩm nào là hoàn toàn không có rủi ro. “Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) chia hàng hóa ra làm ba loại: rủi ro thấp, trung bình, cao. Nếu chúng ta kiểm tra chất lượng hàng hóa không theo quản lý rủi ro thì sẽ vừa thiếu hiệu quả, vừa gây lãng phí lớn”, ông Uy cho biết. Ông đề xuất bỏ phân loại nhóm 1 và 2 mà phân loại theo phương pháp của ISO để từ đó xác định tần suất hậu kiểm cho sản phẩm, chẳng hạn như các mặt hàng có rủi ro cao và dễ bị sử dụng không đúng mục đích như thuốc, vũ khí, vật liệu nổ thì sẽ cần phải đăng ký.

Bên cạnh đó, để tránh các trường hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn ban hành ra lại trở thành rào cản cho doanh nghiệp, VCCI đề xuất nên đưa báo cáo đánh giá tác động thành một tài liệu bắt buộc trong hồ sơ xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật. Nội dung của báo cáo đánh giá tác động sẽ bao gồm các vấn đề về sự cần thiết, tính hợp lý và tính khả thi của việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật. “Việc tham vấn đối tượng chịu tác động khi soạn thảo tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là hết sức quan trọng. Đối tượng tham vấn bắt buộc phải bao gồm các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng và đơn vị cung cấp dịch vụ đánh giá sự phù hợp có hoặc có thể liên quan đến tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật”, VCCI nhận định.

Trong trường hợp cơ quan soạn thảo tham khảo tiêu chuẩn của nước ngoài khi ban hành tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam thì cần lưu ý một số vấn đề như (1) ngoài nội dung của tiêu chuẩn, cần tham khảo cả đối tượng áp dụng của tiêu chuẩn đó; (2) việc dịch thuật cần được tiến hành kỹ lưỡng và cần có chú giải các thuật ngữ một cách cẩn thận; (3) cho phép doanh nghiệp áp dụng đồng thời cả phiên bản cũ và mới khi tiêu chuẩn nước ngoài có sự thay đổi mà chưa kịp thay đổi tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn tương ứng của Việt Nam.

Báo cáo cũng nhấn mạnh, các quy chuẩn kỹ thuật chỉ nên được ban hành nhằm hướng đến mục tiêu bảo đảm tính an toàn của sản phẩm, hàng hoá hoặc các lợi ích công cộng. Các mục tiêu khác như bảo hộ thị trường, thúc đẩy giao dịch hay nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa cần được cân nhắc hết sức thận trọng trong quá trình soạn thảo. Trước khi ban hành một quy chuẩn kỹ thuật, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc các giải pháp khác như quy định trách nhiệm pháp lý nếu để xảy ra rủi ro hoặc các biện pháp giám sát quá trình khác. Trong trường hợp ban hành tiêu chuẩn sử dụng tên gọi thông dụng thì cần có sự cân nhắc hết sức kỹ lưỡng. “Việt Nam cần tiến tới bỏ cơ chế quy chuẩn kỹ thuật theo thông lệ quốc tế, thay vào đó là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về việc những trường hợp nào phải áp dụng bắt buộc các tiêu chuẩn”, nhóm thực hiện báo cáo kiến nghị.

Bài đăng KH&PT số 1343 (số 19/2025)