Các nhà khoa học ở Viện Hải Dương học thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và Viện Nghiên cứu Địa cực (ISP) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia Italy (CNR) tìm kiếm, phân lập các chủng vi khuẩn cổ chịu mặn Haloarchaea bản địa, với tiềm năng cung cấp các enzyme đặc thù ứng dụng trong y sinh và công nghiệp.
Cellulose, xylan, chitin và acid hyaluronic là những polysaccharide quan trọng trong tự nhiên, có nhiều ứng dụng y sinh và công nghiệp. Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả các hợp chất này đòi hỏi những enzyme đặc thù, có khả năng hoạt động trong điều kiện khắc nghiệt. Trong số đó, các enzyme từ vi khuẩn cổ chịu mặn Haloarchaea đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu nhờ các đặc tính vượt trội: chịu mặn, bền nhiệt và ổn định trong dải pH rộng.
Việt Nam sở hữu hệ thống ruộng muối tự nhiên trải dài từ Bắc vào Nam, là môi trường lý tưởng cho sự phát triển của Haloarchaea. Tuy nhiên, các nghiên cứu về nhóm vi sinh vật cổ này vẫn còn rất hạn chế. Trong nhiệm vụ hợp tác quốc tế “HALOPHARM: Vi khuẩn cổ chịu mặn - nguồn enzyme mới cho dược liệu” (mã số QTIT01.01/23-24), các nhà khoa học ở Viện Hải Dương học thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và Viện Nghiên cứu Địa cực (ISP) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia Italy (CNR) tìm kiếm, phân lập các chủng Haloarchaea bản địa.
Cụ thể, các nhà khoa học đã tiến hành thu mẫu tại các ruộng muối điển hình ở cả ba miền đất nước, đặc biệt là Hòn Khói (Khánh Hòa) và Hải Lý (Nam Định) - những địa điểm có độ mặn rất cao, điều kiện sống khắc nghiệt đến mức hầu như không loài sinh vật nào có thể tồn tại.
Kết quả, nhóm nghiên cứu đã phân lập được 27 chủng vi sinh vật chịu mặn cao từ các mẫu thu tại Hòn Khói - Khánh Hòa. Các chủng này cho thấy khả năng thích nghi ấn tượng với độ mặn từ 165 - 375 g/L và nhiệt độ dao động từ 36,5 - 60,2°C, những điều kiện được đánh giá là môi trường cực đoan với điều kiện tồn tại của sự sống. Đặc biệt, năm trong số các chủng này được xác định thuộc nhóm Haloarchaea - cổ khuẩn ưa mặn, dựa trên phản ứng nhạy cảm đặc hiệu với anisomycin. Việc các chủng này không chỉ sống sót mà còn phát triển tốt trong điều kiện nuôi cấy nhân tạo đã mở ra hướng tiếp cận với thế giới vi sinh vật cổ vốn vẫn còn là ẩn số của sinh giới.
Kết quả ban đầu này là cơ sở để tiếp tục sàng lọc, tối ưu và đánh giá khả năng ứng dụng enzyme trong các nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đã góp phần bổ sung vào Bộ sưu tập gần 2.000 chủng vi sinh vật biển hiện đang lưu trữ tại đơn vị, hướng tới xây dựng Ngân hàng vi sinh vật biển Quốc gia.
Tin đăng KH&PT số 1351 (số 27/2025)
Việt Lâm