Nhiều người ở các tỉnh phía Bắc hẳn nhớ rõ trước khi cơn bão Yagi đổ bộ vào Việt Nam vào tháng 9/2024, họ đều nhận được các tin nhắn SMS và Zalo dồn dập trong suốt ba, bốn ngày về diễn biến, mức độ nguy hiểm của cơn bão và những bước cụ thể, rõ ràng cần làm để phòng ngừa khi thiên tai này ập đến. Nhờ vào đó, hai ngày trước khi cơn cuồng nộ này quét qua các tỉnh ven biển Việt Nam như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa.., tất cả các tàu bè đã khẩn trương cập bến, neo đậu đến nơi an toàn nên rất ít trường hợp ngư dân gặp nạn trên biển.
Đây là một ví dụ về hiệu quả của hệ thống cảnh báo sớm thiên tai dựa trên cộng đồng (CBEWS). Hệ thống này “tâm niệm” lấy cộng đồng làm trung tâm của quá trình quản lý rủi ro thiên tai. Theo đó, cộng đồng cần phải được trao quyền tham gia phòng ngừa và đối phó với thiên tai bình đẳng với tất cả các nhân tố khác, kể cả cán bộ quản lý nhà nước.
Trước CBEWS, Việt Nam sử dụng hệ thống cảnh báo sớm thiên tai EWS vốn đề cao vai trò của các cơ quan nhà nước. EWS được tổ chức theo chiều dọc: theo đó, khi thiên tai bắt đầu hình thành, các cơ quan chức năng về dự báo khí tượng, khí hậu sẽ biên tập thông tin và truyền tới Ban chỉ huy Phòng chống Thiên tai và Tìm kiếm Cứu nạn các cấp từ Trung ương đến địa phương và cuối cùng mới tới người dân. Vì vậy, người dân đóng vai trò khá “bị động” và hành động hoàn toàn dưới sự dẫn dắt, chỉ huy của cơ quan chuyên trách của nhà nước.
Trong khi đó, với hệ thống CBEWS, điểm quan trọng nhất là các thông tin cảnh báo thiên tai phải dễ hiểu và đến được mọi đối tượng cần nó, đặc biệt là cộng đồng dễ bị tổn thương nhất. CBEWS cũng nhấn mạnh việc huy động nguồn lực của địa phương để có thể ứng phó với thiên tai kịp thời, chính xác và phù hợp với bối cảnh của địa phương hơn.
Tuy vậy, CBEWS và EWS không thay thế nhau mà phải tồn tại song song và phối hợp lẫn nhau để tăng cường thế mạnh và hiệu quả của hệ thống cảnh báo.
Những điểm sáng
Một hệ thống CBEWS được tạo thành từ bốn hợp phần: (1) kiến thức về rủi ro thiên tai; (2) phát hiện, giám sát, phân tích và dự báo; (3) phổ biến và truyền thông cảnh báo; (4) khả năng chuẩn bị và ứng phó. Bốn hợp phần này được xây dựng để người dân hiểu rõ về mức độ nghiêm trọng của các thảm họa; có năng lực theo dõi, đánh giá diễn tiến của các thiên tai và nắm được thông điệp cảnh báo từ các cơ quan chức năng và phương tiện truyền thông; sẵn sàng và nhanh chóng đối phó với các tình huống nguy cấp.
CBEWS đã chính thức được công nhận trong Khung hành động Sendai về Giảm thiểu rủi ro thiên tai giai đoạn 2015 - 2030. Đây là tài liệu đưa ra trong Hội nghị Quốc tế về Giảm thiểu rủi ro Thảm họa do Liên Hợp Quốc tổ chức ở Sendai, Nhật Bản năm 2015 mà Việt Nam là một trong 87 quốc gia thông qua. Đi xa hơn, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án nâng cao nhận thức cộng đồng về quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng từ năm 2009.
Theo chị Diệu My, mô hình CBEWS đã được triển khai tại miền núi phía Bắc, Huế và một số vùng tại Tây Nguyên. Chị đánh giá mô hình này có nhiều thuận lợi để áp dụng ở Việt Nam dựa trên việc các cộng đồng có tính kết nối và tương trợ cao, sẵn sàng tham gia vào những hoạt động chung vì lợi ích cộng đồng.
Trong khoảng năm năm triển khai ở Việt Nam, CBEWS hé lộ những tín hiệu tích cực. Nghiên cứu của chị Diệu My và các cộng sự tại sáu xã ven biển của TP. Huế (Lộc Điền, Vinh Mỹ, Phú Diên, Phú Gia, Quảng Thành và Quảng Công) cho thấy hiểu biết của người dân trong hợp phần một là khá tốt. Điều đó có nghĩa là công chúng lường trước được mức độ tác động và các kịch bản diễn tiến của nhiều loại thiên tai khác nhau.
Đồng thời, họ cũng được tiếp cận ở một mức nào đó tới các bản đồ và dữ liệu về những địa điểm nguy hiểm. Điều này có thể là do các địa phương đã tận dụng mọi kênh truyền tải có thể để thông tin tới người dân từ truyền hình, truyền thanh, biển báo, loa phóng thanh tới tin nhắn SMS, tin nhắn trên các nền tảng số như Zalo và mạng xã hội. Độ phủ sóng của thông điệp đạt tới 80-90% ở một số xã được khảo sát.
Các địa phương cũng tận dụng nguồn lực ở chính địa phương mình theo tinh thần của CBEWS thông qua phương châm “bốn tại chỗ”: chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ. Bởi vậy đã có sự hợp tác giữa chính quyền và hộ gia đình ở mức độ nhất định.
Nhưng vẫn nhiều hạn chế
Nhưng còn ba hợp phần khác thì sao? “Để cộng đồng tham gia vào toàn bộ các hợp phần và được xem như một bên liên quan ngang bằng với các bên khác thì họ cũng phải có năng lực nhất định. Nhưng điểm mấu chốt là năng lực của họ vẫn còn hạn chế” – chị Diệu My thừa nhận. Việc xây dựng năng lực của người dân, theo CBEWS, là một quá trình phải được tiến hành liên tục, cập nhật và diễn tập thường xuyên. Tuy nhiên, thực tế hiện nay nó mới chỉ dừng lại ở các buổi họp định kì ở địa phương – mang nặng tính hình thức và chưa phải là cách bền vững.
Đó còn chưa kể, kinh phí và nhân sự cho việc nâng cao và duy trì năng lực này dường như chỉ mang tính “thời vụ”. Kinh phí vận hành CBEWS ở thời điểm nhóm chị My thực hiện nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu dựa vào các chương trình tài trợ quốc tế. Điều đó có nghĩa là “mô hình phát huy rất tốt, rất hiệu quả khi có nguồn lực và đầu tư từ dự án, nhưng sau khi chương trình, dự án rút đi thì thiếu sự hỗ trợ về tài chính để vận hành đều đặn” – chị Diệu My cho biết. Các cán bộ phụ trách truyền tải thông tin cảnh báo đến cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc sở hữu và vận hành CBEWS, nhưng họ thường chỉ là bán chuyên trách, “năm này thì người này làm, năm khác thì người khác làm, chưa trở thành một vị trí quy củ trong cơ chế chính thức”, chị Diệu My đánh giá.
Vai trò của người dân cũng chưa được coi là trung tâm trong việc ứng phó với thiên tai. “Kế hoạch phòng chống thiên tai ở nhiều địa phương được cập nhật hằng năm nhưng có những phần chưa chính xác vì cơ chế phản hồi từ người dân chưa được chú trọng, hoặc nhiều khi có làm nhưng chưa sát sao”, chị Diệu My nói. Hơn nữa, cộng đồng nào cũng đều có những kinh nghiệm và tri thức bản địa đối mặt với các hiểm họa tự nhiên từ xưa đến nay nhưng hầu như không được tính đến trong các kế hoạch thường niên này. Do đó, người dân hiện đang tập trung ứng phó với các thiên tai trước mắt thay vì xây dựng năng lực ứng phó trong tương lai.
Bên cạnh đó, việc trao quyền cho cộng đồng trong quan trắc và cảnh báo thiên tai còn hạn chế do quá trình này vẫn được thiết kế và đầu tư theo cách tiếp cận từ trên xuống và thiếu sự kết nối giữa Trung ương và địa phương. Các địa phương chủ yếu mới nhận được cảnh báo từ các cơ quan chức năng cấp Trung ương thay vì người dân tham gia vào vận hành hệ thống giám sát.
Dù còn gặp nhiều khó khăn trong triển khai, song quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng vẫn sẽ là xu thế của tương lai trong bối cảnh thiên tai ngày càng khắc nghiệt và khó lường. Chị Diệu My và các cộng sự cũng đã đánh giá hiệu quả của một số hình thức quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng khác và gần đây đã công bố một nghiên cứu về tác dụng của các vở kịch cộng đồng trong nâng cao nhận thức và hành động của người dân về thiên tai và biến đổi khí hậu. Sau khi được cung cấp các thông tin cơ bản về chủ đề này, nhóm nòng cốt ở cộng đồng sẽ tự xây dựng kịch bản và trở thành diễn viên trong vở kịch. “Hình thức này rất thú vị bởi nó trở thành một sự kiện cộng đồng, dễ hiểu và thu hút được người dân tham gia. Nó hiệu quả hơn rất nhiều việc mời người dân đến hội trường và xem trình chiếu”, chị Diệu My nhận xét.
Chị cũng đang tham gia một dự án về nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của các hệ sinh thái trong giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Mô hình này sử dụng các dịch vụ của hệ sinh thái (với dự án chị Diệu My tham gia là rừng ngập mặn ở khu vực đầm phá Tam Giang) để vừa làm sinh kế cho người dân, vừa giảm thiểu các rủi ro thiên tai. Cộng đồng có thể tham gia mô hình bằng cách đóng góp thời gian, ngày làm việc để đi trồng cây, sau đó chăm sóc và bảo vệ để cây phát triển lâu dài và tốt hơn.
Bài đăng KH&PT số 1332 (số 8/2025)