Với ngành nông nghiệp Việt Nam, giai đoạn 1955 - 1975 chứng kiến sự khôi phục và phát triển kinh tế, góp phần vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này, các nhà khoa học đầu ngành nông nghiệp như giáo sư Bùi Huy Đáp, Lương Định Của, Vũ Tuyên Hoàng... đã để lại những dấu ấn vô cùng đậm nét.


Giáo sư Bùi Huy Đáp.
Giáo sư Bùi Huy Đáp.

Giáo sư Bùi Huy Đáp (1919-2004) được coi là một trong những nhà khoa học hàng đầu, có đóng góp to lớn nhất cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Thành quả khoa học của giáo sư được đúc kết thành công trình đồ sộ bậc nhất Việt Nam về cả khối lượng, chất lượng, tính đa dạng bách khoa, tính kinh điển giáo trình và tính phổ thông truyền bá tri thức, chuyển giao công nghệ. Khoa học của giáo sư là “thứ khoa học không cưỡng bức thiên nhiên, mà là thứ khoa học khiêm nhường thuận với thiên nhiên. Là khoa học, nhưng vẫn dung dưỡng, tiếp nối di sản 4000 năm trồng lúa nước” và được một số học giả cho đặt tên là “phương pháp Bùi Huy Đáp”, “trường phái Bùi Huy Đáp”. Chuyên đề được xuất bản bằng tiếng Pháp với tên gọi “Nghề trồng cây ăn quả ở Trung Kỳ” của giáo sư đã khởi đầu cho hơn 100 cuốn sách khoa học và hơn 1.000 bài báo về sinh học, về nông nghiệp vùng nhiệt đới Việt Nam và Đông Dương, về triết học và phương pháp nghiên cứu. Riêng về lúa, hai cuốn “Cây lúa miền Bắc Việt Nam” (1964) và “Cây lúa Việt Nam” (1981) mang tính kinh điển và thuộc loại “bách khoa toàn thư” của nghề trồng lúa nước của Việt Nam. Ngoài ra, từ rất sớm, giáo sư đã nghiên cứu về cây ngô, khoai, sắn, đậu đỗ… kết quả được đúc kết trong cuốn sách mang tên “Hoa màu lương thực”.

Cống hiến đặc biệt xuất sắc của GS. Bùi Huy Đáp cho công cuộc phát triển nền nông nghiệp nước nhà là đã phát minh ra vụ lúa xuân với các giống lúa thấp cây, năng suất cao, chống chịu tốt, tạo ra cuộc cách mạng về mùa vụ, về năng suất và sản lượng cho cây lúa Việt Nam, tạo ra vụ đông cho các cây hoa màu, đảm bảo an ninh lương thực cho nhân dân miền Bắc, chi viện lương thực cho quân và dân miền Nam ăn no, đánh thắng.

Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền khoa học nông nghiệp, phát triển sản xuất nông nghiệp, GS. Bùi Huy Đáp đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý: Chiến sĩ thi đua toàn quốc – năm 1952; 2 Huân chương Lao động hạng Nhì - năm 1955 và năm 1962; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất – năm 1956; đặc biệt là Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN đợt 1, năm 1996. Hiện nay, trong khuôn viên Quảng trường mang tên Bùi Huy Đáp tại khu vực trung tâm của Học viện Nông nghiệp Việt Nam có đặt tượng giáo sư; tên của giáo sư cũng đã được đặt cho các tuyến phố tại thành phố Nam Định và thành phố Đà Nẵng.

Giáo sư Nông học Lương Định Của.
Giáo sư Nông học Lương Định Của.

Giáo sư Nông học Lương Định Của (1920-1975) là người có công lớn trong giáo dục đào tạo nhiều thế hệ học trò trở thành cán bộ đầu ngành trong các lĩnh vực khoa học nông nghiệp. Chính ông đã lai tạo thành công một số giống lúa cho năng suất cao và chất lượng tốt, như: giống Nông nghiệp 1 được lai tạo từ giống Ba Thắc của Nam bộ với Bunko (Nhật Bản). Sau đó là nhiều giống mới như: giống lúa mùa muộn Saisubao, giống lúa Chiêm 314, giống NN75-1, dòng NN8-388 (chọn giống từ IR8) và một số cây giống khác như: dưa hấu không hạt, dưa lê, khoai lang, rau muống, đu đủ… Cùng với những ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, giáo sư Lương Định Của đã đề xướng mô hình canh tác “bờ vùng, bờ thửa”, “cấy nông tay thẳng hàng”, “đảm bảo mật độ” được hàng triệu nông dân Việt Nam áp dụng thành công trên diện rộng, tạo ra một cuộc cách mạng trong nông nghiệp. Cuộc đời của nhà “bác học nông dân” Lương Định Của gắn liền với con đường lúa gạo Việt Nam. Ông là người suốt đời lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt; theo đó, cây lúa Việt Nam kể từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến nay luôn đạt năng suất cao. Thành tựu này ngoài mồ hôi, công sức của những người nông dân chân lấm tay bùn, còn có cống hiến trí tuệ và tấm lòng của giáo sư.

Với các đóng góp lớn lao của mình cho nền nông nghiệp Việt Nam, nhà giáo, nhà khoa học Lương Định Của được nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996. Năm 2006, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã lập một giải thưởng mang tên Lương Định Của. Tên của ông hiện được đặt cho một con đường ở quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, một con phố ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, một con đường ở Sóc Trăng, và Trung tâm thông tin Thư viện của Học viện Nông nghiệp Việt Nam mang tên ông.

GS.VS. AHLĐ Vũ Tuyên Hoàng.
GS.VS. AHLĐ Vũ Tuyên Hoàng.

Giáo sư, Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng (1938-2008) đã dành cả đời cống hiến cho khoa học nông nghiệp. Ông là nhà khoa học nông nghiệp xuất sắc, nhà di truyền học lớn trong nước và quốc tế. Đóng góp chính của giáo sư tập trung vào: (i) Phát triển giống cây trồng mới: Ông là người tiên phong trong ứng dụng di truyền học hiện đại vào chọn tạo giống lúa, ngô và một số cây trồng khác. Một số giống lúa do ông chọn tạo đã được đưa vào sản xuất đại trà, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; (ii) Xây dựng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam: Với vai trò là người đứng đầu, ông đã phát triển hệ thống nghiên cứu nông nghiệp hiện đại, thúc đẩy việc áp dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất; (iii) Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA): Dưới sự lãnh đạo của ông, VUSTA phát triển mạnh mẽ, trở thành cầu nối giữa giới trí thức với Nhà nước trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội; (iv) Viện sĩ nước ngoài của nhiều viện hàn lâm: Sự công nhận quốc tế đối với ông góp phần nâng cao vị thế của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.

Ông được nhận giải thưởng lúa Thế giới 1998, giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN (2000), Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới (2021).

Nhà giáo Nguyễn Xiển.
Nhà giáo Nguyễn Xiển.

Nhà giáo Nguyễn Xiển (1907-1997) là nhà tri thức yêu nước, yêu dân, ủng hộ mạnh mẽ dân chủ và tiến bộ xã hội. Ông được xem là người khai sinh ngành khí tượng thủy văn tại Việt Nam với các công trình Đặc điểm khí hậu miền Bắc Việt Nam,Tập bản đồ khí hậu miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1937 nhà giáo Nguyễn Xiển công tác trong ngành khí tượng thủy văn. Năm 1945, Thầy giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc bộ kiêm Giám đốc Nha khí tượng. Năm 1946, ông được bầu làm Phó Tổng thư ký Đảng xã hội Việt Nam. Từ đây Thầy làm công tác khoa học giáo dục và trở thành một trong những người đầu tiên xây dựng ngành đại học Việt Nam. Năm 1955, nhà giáo Nguyễn Xiển làm Bộ trưởng Cứu tế xã hội. Từ năm 1960, ông là Giám đốc Nha Khí tượng Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Địa cầu Quốc tế Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Ủy ban khoa học- kỹ thuật nhà nước. Nhà giáo Nguyễn Xiển là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa I, khóa II; đại biểu Quốc hội Việt Nam liên tục 36 năm từ khoá I đến khóaVIII, trong đó có 26 năm giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Phó Chủ tịch Quốc hội. Thầy Nguyễn Xiển là giảng viên Khí tượng học, thuộc 27 nhà giáo đầu tiên công tác của Học viện Nông nghiệp Việt Nam.

Do những công lao, đóng góp to lớn, nhà giáo Nguyễn Xiển được tặng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996. Tên ông đã được đặt cho các tuyến đường tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và cho nhiều công trình tại nhiều địa phương khác.

GS. Lê Duy Thước.

GS. Lê Duy Thước (1918-1997) tốt nghiệp trường Cao đẳng Nông Lâm Đông Dương tại Hà Nội. Năm 1945, Ông làm Chánh Văn phòng Bộ Thanh niên. Năm 1950, nhà giáo Lê Duy Thước là Phó Đổng lý Văn phòng Bộ Canh nông (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Năm 1951, ông học tập tại Liên Xô và năm 1955 tiếp tục về công tác tại Bộ Nông nghiệp. Năm 1958, nhà giáo Lê Duy Thước trở thành đại biểu tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV) ở Mát-xcơ-va. Năm 1964, ông là Ủy viên Ủy ban Kế hoạch - Ngân sách của Quốc hội. Từ 1976 đến 1983, ông là Hiệu trưởng trường Đại học Nông nghiệp I – nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ông được phong học hàm Giáo sư đợt đầu năm 1980, danh hiệu Nhà giáo nhân dân và được coi là “Ông tổ” của ngành khoa học Đất Việt Nam. Cụm công trình “Điều tra, phân loại, lập bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/500.000” của GS. Lê Duy Thước, GS. Cao Liêm, GS. Vũ Cao Thái, TS. Trần Khải và KS. Đỗ Đình Thuận đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 trong lĩnh vực Khoa học nông nghiệp.

Các nhà khoa học Phạm Khắc Mai, Điền Văn Hưng, Phan Đình Đỗ, Tống Trần Đào là những bác sĩ Thú y, Kĩ sư chăn nuôi “Tây học” là những người đặt nền móng cho các nghiên cứu về chăn nuôi-thú y, có vai trò quan trọng trong việc định hình hướng nghiên cứu ban đầu về kỹ thuật chăn nuôi và phòng chống dịch bệnh cho gia cầm, gia súc.

Trong điều kiện đất nước còn chiến tranh ác liệt, ngành thủy sản bước đầu hình thành với các hoạt động đánh bắt ven bờ và nuôi trồng thủy sản truyền thống. Tuy chưa có điều kiện phát triển mạnh mẽ về nghiên cứu khoa học, song các cán bộ kỹ thuật và nhà khoa học đầu tiên đã đặt nền móng cho sự phát triển ngành trong tương lai. Các thành tựu và đóng góp của các nhà khoa học thủy sản bao gồm: (i) Thành lập Trạm nghiên cứu cá nước ngọt năm 1963 – là tiền thân của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 (hiện nay) – nơi nghiên cứu sản xuất giống thủy sản đầu tiên ở miền Bắc, là nghiên cứu các loài cá bản địa truyền thống như như cá chép, cá trắm, cá mè để phục vụ sản xuất, cải thiện sinh kế; (ii) Thành công bước đầu trong nhân giống cá nước ngọt bằng nghiên cứu sử dụng hormon – đặt nền móng cho sinh sản nhân tạo các loài cá sau này; (iii) Ứng dụng kỹ thuật nuôi cá trong ao, hầm, ruộng lúa – đặc biệt ở vùng căn cứ, giúp đảm bảo lương thực tại chỗ; (iv) Xuất bản những tài liệu nghiên cứu ban đầu về sinh học cá nước ngọt và phương pháp nuôi truyền thống; (v) Thời kỳ này Giám đốc Trạm Nghiên cứu thủy sản nước ngọt là TS. Hà Ký, người sau này đảm nhiệm chức vụ Vụ Trưởng Vụ Khai thác và BVNL Thủy sản, Bộ Thủy sản.

GS .Thái Văn Trừng.
GS. Thái Văn Trừng.

Giáo sư Thái Văn Trừng (1917-2004) là nhà khoa học lâm nghiệp lỗi lạc của Việt Nam. Giáo sư là nhà sáng lập ngành Lâm sinh học Việt Nam; là chủ biên của công trình nghiên cứu và xuất bản cuốn sách Thảm thực vật rừng Việt Nam (1962, 1978). Ông là người đã cải tạo rừng ngập mặn Cà Mau để phục vụ lợi ích con người. Hiện vẫn còn khu rừng và kênh đào mang tên ông tại Cà Mau. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng (sau 1975), ông đã tìm ra phương thức phục hồi hệ sinh thái rừng nhiệt đới bị hủy diệt bởi chất độc hóa học tại miền Nam, phủ xanh đồi trọc, dựng phi lao chống cát. Ông đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng: Viện phó Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam, Viện trưởng Sinh học nhiệt đới TPHCM, Giám đốc Bảo tàng thực vật TPHCM, Chủ tịch Hội Sinh học TPHCM. Với đóng góp lớn lao, giáo sư Thái Văn Trừng đã được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN (2000).

GS. TSKH Đồng Sỹ Hiền (trái).
GS. TSKH Đồng Sỹ Hiền (trái).

GS. TSKH Đồng Sỹ Hiền (2018-2010) từng đảm nhận nhiều chức vụ: Tổng Thanh tra, Bộ Canh nông (1948-1950); Tổng Giám đốc Nha Lâm chính (1950-1952); Giám đốc Vụ Lâm nghiệp (1952-1955). Khi chuyển sang Học viện Nông Lâm, ông vừa làm Chủ nhiệm Bộ môn, vừa giảng dạy môn Điều tra rừng. Ngoài ra, ông còn được phân công phụ trách hai môn Môi trường và môn Toán học thống kê. Năm 1970, ông được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng rồi Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp (1970-1980); Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Bộ Lâm nghiệp (1980-1985); Cố vấn Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp (1985-1989).Giáo sư Đồng Sỹ Hiền đã viết cuốn sách “Lập thể tích và biểu đồ thon cây đứng cho rừng Việt Nam”, do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật ấn hành năm 1974. Cuốn sách được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong các môn Điều tra rừng.

* Bài viết này được trích từ bài tham luận "Đống góp của các nhà khoa học ngành Nông nghiệp với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước (từ 1945 đến nay): Những bước biến, dấu ấn đóng góp và gương mặt tiêu biểu qua từng thời kỳ" trong khuôn khổ tọa đàm “Đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước” do Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam (MEDDOM) tổ chức.


Bài đăng KH&PT số 1348 (số 24/2025)