Việc xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành là một trong những giải pháp quan trọng góp phần đẩy lùi tình trạng buôn bán hàng giả đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam.
Hàng giả ngập tràn trên môi trường số
Đầu tháng 6/2025, nhiều gian hàng ở chợ Đồng Xuân đồng loạt đóng cửa. Bên cạnh một số ý kiến cho rằng các tiểu thương tạm đóng cửa để điều chỉnh và thích ứng với các quy định mới về thuế và xuất xứ hàng hóa, không ít người nghi ngờ tình trạng này liên quan đến cuộc truy quét hàng giả đang được triển khai. Sự nghi ngờ này không hề vô lý: chợ Đồng Xuân từng xuất hiện trong Báo cáo đặc biệt 301 về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên toàn cầu của Văn phòng Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USTR),dưới tư cách là một trong những điểm bán hàng giả khét tiếng ở Việt Nam.
Chợ Đồng Xuân chỉ một phần nhỏ trong mạng lưới hàng giả “phủ sóng” trên khắp cả nước từ lâu. “Tình trạng hàng giả, hàng lậu ở mức báo động ở Việt Nam đã góp phần quan trọng vào nền kinh tế ngầm (nền kinh tế chưa quan sát) có giá trị hàng chục tỷ đô la, khiến nhà nước thất thu thuế còn người tiêu dùng thì gánh chịu rủi ro sức khỏe. Các mặt hàng giả xuất hiện ở mọi lĩnh vực từ dệt may, mỹ phẩm, dược phẩm, rượu mạnh, thực phẩm và phần mềm”, theo một báo cáo do Phòng thương mại quốc tế ICC phối hợp với Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) công bố vào năm 2019.
Số liệu thống kê qua mỗi năm cho thấy chống hàng giả vẫn là một cuộc chiến chưa có hồi kết ở Việt Nam. Sau một tháng cao điểm phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ từ giữa tháng năm đến tháng sáu năm nay, cả nước đã phát hiện và xử lý hơn 3000 vụ vi phạm. Đáng chú ý, có tới hơn một nửa trong số này là vi phạm liên quan đến hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Sự dịch chuyển từ các hình thức kinh doanh truyền thống sang thương mại điện tử đã mở ra nhiều cơ hội cho cả doanh nghiệp làm ăn chân chính lẫn những kẻ buôn bán hàng giả. “Trước những cuộc thanh tra, kiểm tra, người đứng đầu các sàn thương mại điện tử có nói chuyện với chúng tôi về việc làm sao để cho mọi thứ ‘nhẹ nhàng’ một chút, chứ kiểm tra gắt gao quá thì cả sàn của chúng tôi chỉ còn 2% [hàng thật]”, ông Nguyễn Ngọc Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), nhận xét trong tọa đàm “Triệt tận gốc hàng giả, hàng kém chất lượng: Bảo vệ người dân và doanh nghiệp” do báo Thanh niên tổ chức vào ngày 11/6. “Như vậy, hầu như tất cả xung quanh chúng ta đều là hàng giả, hàng kém chất lượng hết”.
Nếu không xử lý triệt để, vấn nạn hàng giả có thể trở thành rào cản lớn trên con đường đi đến thịnh vượng dựa trên đòn bẩy kinh tế tư nhân mà Việt Nam đang hướng đến. Hàng giả khiến doanh nghiệp càng thêm chật vật để tồn tại giữa bối cảnh thị trường vốn đang đầy khó khăn và biến động. “Theo ước tính, các doanh nghiệp bán hàng chính hãng sẽ bị thiệt hại ít nhất là 15-20% doanh thu vì vấn đề hàng giả. Ngoài thất thu về mặt doanh thu, doanh nghiệp còn tốn kém nhiều chi phí khác liên quan, vì chi phí để chống hàng giả trong nội bộ doanh nghiệp là rất lớn”, ông Nguyễn Thuận Đạt, Giám đốc điều hành Công ty Thời trang và Mỹ phẩm Duy Anh (thuộc Tập đoàn IPPG), chia sẻ trong hội thảo. “Đơn cử như chi phí thuê các luật sư để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chi phí để kiểm tra thị trường, để huấn luyện nhân viên nội bộ phát hiện hàng giả như thế nào… Đó là những chi phí mà doanh nghiệp phải chịu thêm ngoài vấn đề thất thu”.
Đáng lo ngại, hàng giả còn ảnh hưởng đến doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế trong lâu dài. Hàng giả thường có giá rẻ và chất lượng thua kém hàng thật. Do vậy, khi xâm nhập thị trường, hàng giả gây tổn hại đến uy tín của thương hiệu, làm giảm niềm tin của khách hàng. Nguy cơ hàng giả là một trong những yếu tố khiến doanh nghiệp “e ngại” khi bước vào thị trường Việt Nam. “Việc khắc phục vấn đề hàng giả sẽ góp phần lành mạnh hóa môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Đây sẽ là một ưu thế khi đàm phán thương mại với các đối tác trên thế giới”, ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN), nhận định.
Hàng giả không phải là bài toán riêng của Việt Nam. Ngay cả những quốc gia phát triển trên thế giới như Mỹ và các quốc gia châu Âu cũng đang “đau đầu” với vấn đề này. Tất nhiên, mỗi bên lại đứng ở các góc độ khác nhau. Việt Nam, các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc đứng đầu thế giới về nguồn cung và trung chuyển hàng giả. Trong khi đó, các nước Âu Mỹ lại là những điểm đến hàng đầu của các mặt hàng này. Theo một báo cáo gần đây của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), 20 trong số 25 điểm đến hàng đầu thế giới của hàng giả đều là các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU). Trong khi đó, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam lại nằm trong số 25 quốc gia là nguồn cung lớn nhất lượng hàng giả vào EU.
Tăng cường phối hợp giữa các bên
Khái niệm hàng giả dường như đã quá quen thuộc. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu đầy đủ về các loại hàng giả. Thực tế, hàng giả được chia thành nhiều loại khác nhau: hàng hóa giả mạo về chất lượng, hàng giả mạo về nguồn gốc xuất xứ, hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ. Chẳng hạn một loại thuốc chính hãng chứa hàm lượng hoạt chất nhất định, nếu không đạt được thì đó là hàng giả về chất lượng. Nếu loại thuốc đó đạt về chất lượng, song lại ghi nguồn gốc sản xuất tại Nhật Bản dù thực tế sản xuất tại Trung Quốc, thì đó là giả mạo về nguồn gốc xuất xứ. Nếu trên loại thuốc đó của bên A sản xuất, nhưng trên sản phẩm lại in nhãn hiệu của công ty B (bên A không có quyền sử dụng nhãn hiệu này) thì đó là hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ. Đây cũng là loại hàng giả thường gặp nhất. Bên cạnh hàng giả về nhãn hiệu, hàng giả về sở hữu trí tuệ còn bao gồm hàng hóa giả mạo về chỉ dẫn địa lý, ví dụ như nước mắm Phú Quốc giả, và hàng hóa giả mạo về quyền tác giả, quyền liên quan -chẳng hạn phần mềm lậu.
Điểm chung của các loại hàng giả là chúng chỉ xuất hiện, “ăn theo” khi các sản phẩm hàng thật đã có tên tuổi, bán được trên thị trường. Một thương hiệu uy tín là công cụ đắc lực giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, song cũng dễ trở thành “miếng mồi béo bở” cho những kẻ làm giả. Chẳng hạn sản phẩm yến sào Khánh Hòa nổi tiếng ở Việt Nam, “khi chúng tôi mới ra thị trường, thời gian đầu làm gì có hàng giả. Lúc đó chúng tôi một mình một cõi. Khoảng 10 năm sau, khi có ‘miếng bánh’ ăn được rồi thì các loại hàng giả hàng nhái mới thi nhau xuất hiện: nhái thương hiệu, nhái hình ảnh, nhái màu sắc, nhái biển đảo (hình ảnh quen thuộc trên hộp yến sào Khánh Hòa)... Chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn, cũng chật vật, cũng đi kiện tụng rất nhiều”, ông Huỳnh Đức Trọng, Giám đốc Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh của Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Yến sào Khánh Hòa, bày tỏ.
Những đợt truy quét hàng giả của cơ quan quản lý thị trường không đủ sức ngăn chặn tình trạng này. Chẳng hạn như khi đi kiểm tra tại Saigon Square - “điểm đen” nổi tiếng về buôn bán hàng giả ở TP.HCM, “chúng tôi chỉ có vài chục người, mà trong đó có hàng trăm sạp hàng, khi vào cửa thì có camera báo”, ông Nguyễn Thành Nam, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công thương), cho biết. “Khi tịch thu một sản phẩm về lưu kho xong định giá, định giá xong nội tiền tiêu hủy còn tốn kém hơn giá trị của chính hàng hóa”. Hơn nữa, khi thấy những đợt truy quét như hiện nay, các đối tượng buôn bán hàng giả nhanh chóng chuyển sang “chế độ ngủ đông”, tạm ngừng hoạt động, gây khó khăn cho công tác phát hiện và xử lý các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. “Còn rất nhiều khó khăn nữa, trong đó có những vấn đề có tính chuyên môn, nghiệp vụ sâu, chúng tôi cũng không tiện chia sẻ công khai vì nếu nói nhiều, không khác gì đi ‘mách nước’ cho những bên làm hàng giả biết rằng chúng tôi đang yếu điểm này, vướng điểm kia”, ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường TP.HCM bày tỏ.
Những công cụ pháp lý khác cũng chưa phát huy hiệu quả như mong đợi. Về lý thuyết, khi một doanh nghiệp phát hiện ra hàng hóa của mình bị giả mạo, họ có thể yêu cầu cơ quan thực thi có thẩm quyền áp dụng các chế tài hành chính, dân sự, hoặc hình sự. “Việc áp dụng các chế tài áp dụng phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và bản chất của hành vi xâm phạm”, luật sư Nguyễn Vũ Quân và các cộng sự ở Kenfox IP & Law Office, nhận xét trong một bài viết trên Lexology. “Chế tài hành chính bao gồm xử phạt tiền, tịch thu hàng hóa giả mạo, tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Chế tài dân sự gồm các biện pháp như yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại, hoặc các biện pháp khắc phục khác. Chế tài hình sự được áp dụng trong trường hợp các hành vi xâm phạm phạm quyền sở hữu trí tuệ được coi là tội phạm theo Bộ luật Hình sự”. Mỗi biện pháp đều có những ưu nhược điểm riêng: biện pháp hành chính nhanh gọn song mức phạt nhẹ, không đủ sức răn đe. Biện pháp dân sự, hình sự nghiêm khắc hơn song phức tạp, tốn nhiều thời gian và công sức.
Không ít doanh nghiệp đang dần đuối sức trên hành trình bảo vệ thương hiệu của chính mình. “Chúng tôi đã đi kiện tụng rất nhiều. Nhưng bỏ tiền ra kiện còn tốn kém nhiều hơn so với doanh nghiệp họ (bên làm hàng giả) phá sản. Vì họ đầu tư có mấy đâu, nên rất dễ dàng bỏ cái này làm cái khác”, ông Huỳnh Đức Trọng nói. “Sau thời gian dài đeo đuổi, đến nay đã hơn 20 năm, chúng tôi cảm thấy rất đuối”.
Việc xóa bỏ hàng giả là nhiệm vụ mà bất cứ quốc gia nào cũng phải làm để tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Ngoài việc tăng cường kiểm tra, nâng mức phạt, nhiều quốc gia hiện nay cũng ứng dụng công nghệ mới như blockchain để theo dõi chuỗi cung ứng, kiểm tra nguồn gốc xuất xứ sản phẩm. Đặc biệt, trong bối cảnh thương mại điện tử phát triển như hiện nay, nhiều nơi đã yêu cầu các sàn thương mại phải có trách nhiệm quản lý chặt chẽ, đảm bảo hàng hóa trên đó là hàng chính hãng. “Đấy là những biện pháp đang được áp dụng khá hiệu quả ở một số quốc gia trong khu vực như Trung Quốc hay Đài Loan”, ông Nguyễn Thuận Đạt cho biết.
Trong bối cảnh đầy thách thức với nguồn lực hạn chế của Việt Nam, liệu chúng ta nên đi theo con đường nào? “Ngoài việc hoàn thiện thể chế, chính sách, chúng ta phải có những cơ chế phối hợp liên ngành để góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động xử lý hàng giả. Chẳng hạn chúng tôi có lợi thế trong việc đánh giá yếu tố và hành vi xâm phạm, có thể phối hợp với các lực lượng chức năng như công an, quản lý thị trường, thanh tra chính phủ hoặc thanh tra các địa phương”, ông Lê Huy Anh cho biết. “Hiện nay, chúng tôi đã gửi công văn đến các bộ, ngành, cơ quan khác, đề nghị cho chúng tôi được tham gia các đoàn liên ngành, vừa giúp chúng tôi xây dựng năng lực, vừa góp phần phát hiện những hành vi xâm phạm và cảnh báo cơ quan chức năng để vào cuộc một cách chủ động, hiệu quả hơn”.
Bài đăng KH&PT số 1350 (số 26/2025)