Mặc dù là một loại tài sản trí tuệ quan trọng, thậm chí quyết định lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, song những kiểu dáng công nghiệp (KDCN) phi truyền thống như giao diện đồ họa người dùng vẫn chưa được nhìn nhận một cách xứng đáng trong hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam.

Kiểu dáng công nghiệp phi truyền thống như giao diện đồ họa người dùng vẫn chưa được nhìn nhận một cách xứng đáng trong hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam.
Trong hơn một thế kỷ qua, việc bảo hộ KDCN trên thế giới chủ yếu đặt trọng tâm vào các
khía cạnh thẩm mỹ bên ngoài, bao gồm hình khối và họa tiết trang trí của các sản phẩm hữu
hình.

Những kiểu dáng phi truyền thống

Việc mua hàng trên các nền tảng thương mại điện tử, hay thực hiện các thủ tục hành chính công trên các ứng dụng của các cơ quan nhà nước không còn là điều xa lạ với nhiều người ở Việt Nam, nhất là trong tiến trình chuyển đổi số hiện nay, ngày càng nhiều hoạt động được chuyển sang môi trường số. Trong đó, người dùng thường ưa chuộng những ứng dụng và trang web có giao diện đẹp, dễ sử dụng. Ngược lại, những ứng dụng có thiết kế nhàm chán, phức tạp, thao tác không thuận tiện sẽ khó thu hút người dùng. Yếu tố tạo nên sự khác biệt này là giao diện đồ họa người dùng (GUI - Graphical User Interface).

Thoạt nghe có vẻ xa lạ song thực chất, giao diện đồ họa người dùng gắn liền với mọi hoạt động trên môi trường số của chúng ta. Giao diện đồ họa người dùng cho phép giao tiếp với máy tính, các thiết bị điện tử bằng hình ảnh đồ họa có tính tương tác như khối màu sắc, chữ viết, hình ảnh... Nó xuất hiện trong máy tính, các thiết bị đa phương tiện, các linh kiện điện tử, từ thiết bị văn phòng như máy in, cho đến đồ gia dụng như nồi cơm điện tử. Kể từ khi ra đời vào thập niên 1970, giao diện đồ họa người dùng đã giúp mọi người tương tác dễ dàng với các thiết bị điện tử, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của các thiết bị công nghệ thông tin.

Giờ đây, giao diện đồ họa người dùng đã trở thành một trong những yếu tố không thể thiếu trên môi trường số. Thậm chí, “các đối tượng thiết kế trực quan phi vật lý như giao diện đồ họa người dùng, biểu tượng máy tính hay các hiệu ứng hoạt ảnh (animations) đã nổi lên như những yếu tố then chốt, quyết định sự thành công và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghệ”, ông Nguyễn Quang Tuấn, Giám đốc Trung tâm Thẩm định Kiểu dáng công nghiệp, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) nhận xét trong một hội thảo diễn ra vào tháng 6/2025. “Giao diện người dùng tốt sẽ đóng vai trò thu hút cái nhìn đầu tiên của khách hàng khi tiếp xúc với sản phẩm. Hơn nữa, tính hấp dẫn về mặt thị giác, tính dễ sử dụng, và khả năng tương tác của các giao diện này là yếu tố quyết định sự gắn bó của người dùng. Giao diện đồ họa người dùng và các biểu tượng là bộ mặt của sản phẩm, là tài sản kết tinh từ sự đầu tư lớn về trí tuệ và tài chính, đóng vai trò sống còn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường”.

Sự ra đời của các sản phẩm mới trong quá trình chuyển đổi số như giao diện đồ họa người dùng cũng đặt ra câu hỏi lớn về sở hữu trí tuệ. Đó là bảo hộ những đối tượng này như thế nào, bởi chúng dường như đang vượt ra khỏi khung sở hữu trí tuệ truyền thống. Chúng ta nên coi giao diện đồ họa người dùng là một tác phẩm, nhãn hiệu hay KDCN? Dù xếp vào đâu, tất cả vẫn là “một chiếc áo quá chật”. Đơn cử, nếu coi là một tác phẩm, chiếu theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, giao diện người dùng đang nằm ngoài phạm vi bảo hộ của quyền tác giả. Bởi lẽ, giao diện đồ họa người dùng có thể tồn tại ở dạng động, do đó nó rơi vào nhóm “phương pháp hoạt động” - một trong những đối tượng loại trừ khỏi phạm vi bảo hộ quyền tác giả theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. “Điều này tương tự quy định tại Mỹ, khi Luật Bản quyền cũng từ chối bảo vệ các phương pháp hoạt động của giao diện trang web (một dạng của giao diện đồ họa người dùng)”, tác giả Lê Trung Hiếu viết trong bài báo “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với giao diện trang web tại Việt Nam” trên tạp chí Pháp luật và Thực tiễn (Đại học Huế).

Ngay cả khi giao diện đồ họa người dùng ở dạng tĩnh, việc bảo hộ dưới dạng quyền tác giả cũng không dễ dàng. “Lúc này, chủ sở hữu giao diện có thể đăng ký bảo hộ giao diện trang web với tư cách là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Dĩ nhiên, để được bảo hộ, giao diện trang web phải đáp ứng điều kiện về tính nguyên gốc”, tác giả Lê Trung Hiếu viết. “Tuy nhiên, cũng tương tự như pháp luật của Pháp và Mỹ, quy trình xác định liệu một trang web có đáp ứng tính nguyên gốc hay không bao giờ là vấn đề dễ dàng trong bối cảnh công nghệ số hiện nay. Mặt khác, một giao diện trang web ngày nay phần lớn sẽ ở dạng chuyển động, vì vậy rất khó để một diện trang web tổng thể được bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ”. Việc bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu càng kém hiệu quả hơn vì chỉ có thể bảo hộ được các phần riêng lẻ trong giao diện như logo. Nếu tách riêng các thành phần để đăng ký bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu như vậy sẽ rất tốn kém.

Sau khi loại trừ, việc bảo hộ dưới dạng KDCN có lẽ là phương án khả thi hơn cả. Tuy nhiên, hệ thống bảo hộ KDCN vốn được thiết kế để bảo hộ các đối tượng truyền thống chứ chưa tính đến những loại hình mới như giao diện đồ họa người dùng. “Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành định nghĩa KDCN theo cách tiếp cận được xây dựng cho thế giới của các sản phẩm vật lý, hữu hình. Cách định nghĩa này tỏ ra không còn tương thích và gây ra nhiều lúng túng khi áp dụng cho các đối tượng có bản chất động, biến đổi, tồn tại trên màn hình như giao diện đồ họa người dùng hay biểu tượng”, ông Nguyễn Quang Tuấn cho biết. “Tình trạng pháp lý này đang là rào cản, làm suy yếu động lực sáng tạo của các doanh nghiệp công nghệ số và các nhà thiết kế trong lĩnh vực số”.

Đi tìm “chiếc áo vừa vặn”


Những KDCN phi truyền thống như giao diện đồ họa người dùng có tính chất hoàn toàn khác so với những đối tượng kiểu dáng trước đây - chủ yếu tập trung vào các khía cạnh thẩm mỹ bên ngoài, bao gồm hình khối và họa tiết trang trí của các sản phẩm hữu hình. Theo cách hiểu truyền thống, KDCN là hình dáng bên ngoài của sản phẩm hoặc bộ phận để lắp ráp thành sản phẩm phức hợp, được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này và nhìn thấy được trong quá trình khai thác công dụng của sản phẩm hoặc sản phẩm phức hợp. “Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông, khái niệm KDCN đã trải qua một sự mở rộng đáng kể. Hiện nay, chúng ta chứng kiến một loại hình thiết kế mới mà bản chất không còn bị giới hạn trong các hình dạng vật lý hữu hình. Đây chính là KDCN phi truyền thống”, ông Nguyễn Quang Tuấn phân tích. “Dù chưa có một định nghĩa pháp lý thống nhất trên toàn cầu nhưng có thể được hiểu tổng quát là những khía cạnh trang trí hoặc thẩm mỹ của một đối tượng không tồn tại ở dạng vật thể cố định, mà thường được thể hiện và tri giác thông qua một phương tiện kỹ thuật số hoặc một hình thức trình chiếu tạm thời”.

Nhìn chung, các đối tượng KDCN phi truyền thống có ba đặc tính cốt lõi: tính phi vật thể; tính động và biến đổi; tính tương tác. Tính phi vật thể là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa KDCN phi truyền thống so với kiểu dáng truyền thống gắn liền với sản phẩm có vật liệu, kích thước và cấu trúc hữu hình. Các KDCN phi truyền thống tồn tại dưới dạng dữ liệu số, được hiển thị trên các môi trường điện tử. Chúng cũng có tính động và biến đổi bởi các giao diện, biểu tượng có thể chuyển đổi trạng thái và các yếu tố đồ họa có thể dịch chuyển hoặc biến đổi màu sắc theo thời gian hoặc theo một chuỗi lập trình sẵn. Một đặc điểm nổi bật khác là khả năng phản hồi hành vi của người dùng, chẳng hạn khi người dùng nhấp chuột vào biểu tượng trên màn hình máy tính có thể mở ra một danh mục mới trên trang web. Các loại KDCN phi truyền thống tiêu biểu hiện nay gồm có giao diện đồ họa người dùng, biểu tượng (icon), hoạt ảnh và hiệu ứng chuyển động (animations and motion graphics), kiểu chữ (typefaces).

Các tính chất độc đáo này đòi hỏi một cơ chế bảo hộ mới về KDCN. “Một trong những điểm nghẽn lớn trong hệ thống pháp luật về KDCN ở Việt Nam là khoảng trống về bảo hộ các đối tượng trên môi trường số”, ông Nguyễn Quang Tuấn nhận xét. “Sự kết hợp của tính phi vật thể, tính động và tính tương tác tạo nên bản chất phức tạp và độc đáo của KDCN phi truyền thống. Những đặc tính trên cho thấy KDCN phi truyền thống không chỉ đơn thuần là một sự mở rộng về loại hình sản phẩm, mà thực sự là một sự thay đổi về bản chất của đối tượng cần bảo hộ, đòi hỏi pháp luật sở hữu trí tuệ phải có một lăng kính và tư duy tiếp cận mới và cần điều chỉnh linh hoạt các quy định pháp luật để đảm bảo khả năng bảo hộ hiệu quả”.

Việc mở rộng quy định bảo hộ cho những KDCN phi truyền thống không chỉ là câu chuyện riêng của Việt Nam. Ngày càng nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước châu Âu, Trung Quốc… đã sửa đổi các quy định về bảo hộ KDCN nhằm “lấp đầy” khoảng trống về kiểu dáng phi truyền thống. Tại nhiều quốc gia, giao diện đồ họa người dùng và biểu tượng liên tục nằm trong nhóm các đối tượng KDCN có tốc độ tăng trưởng về số lượng đơn đăng ký nhanh nhất.

Mỗi quốc gia lại đi theo những cách tiếp cận khác nhau, chủ yếu chia thành theo ba hướng chính: bảo hộ KDCN phi truyền thống trên KDCN tổng thể; theo cơ chế bảo hộ KDCN riêng phần; thừa nhận đối tượng phi truyền thống là sản phẩm phi vật lý. Mỗi cách tiếp cận lại có những ưu nhược điểm riêng, chẳng hạnvới cách thứ nhất, kiểu dáng phi truyền thống như giao diện chỉ được bảo hộ khi được đăng ký như một phần không thể tách rời của một thiết bị hoàn chỉnh. Điều này dẫn đến rào cản với các nhà phát triển phần mềm độc lập - họ là chủ sở hữu của thiết kế giao diện, nhưng không phải là nhà sản xuất thiết bị phần cứng.

Việt Nam nên đi theo con đường nào? “Thay vì chỉ áp dụng một giải pháp đơn lẻ, chúng ta nên triển khai một cơ chế bảo hộ kép, mang tính bổ trợ cho nhau. Cách tiếp cận này vừa giúp Việt Nam nhanh chóng tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế, vừa cung cấp sự linh hoạt tối đa cho các nhà sáng tạo. Cụ thể, cơ chế này bao gồm việc chính thức công nhận và cho phép bảo hộ KDCN riêng phần; và công nhận các đối tượng phi truyền thống là một loại hình sản phẩm độc lập”, ông Nguyễn Quang Tuấn cho biết. “Việc cung cấp cơ chế bảo hộ kép này sẽ giúp khắc phục những hạn chế của từng phương pháp riêng lẻ, tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, minh bạch và có tính dự đoán cao, qua đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của các ngành công nghiệp sáng tạo và công nghệ số tại Việt Nam. Hơn nữa, việc công nhận các đối tượng phi truyền thống là sản phẩm phi vật lý không đòi hỏi phải từ bỏ nguyên tắc cốt lõi mà Việt Nam đang áp dụng: phạm vi bảo hộ phụ thuộc vào loại hình sản phẩm mang KDCN. Nguyên tắc này vẫn hoàn toàn xác đáng và cần được duy trì đối với các KDCN hữu hình truyền thống. Thay vào đó, chúng ta cần diễn giải nguyên tắc đó một cách linh hoạt và tinh vi hơn để nó có thể bao hàm cả KDCN phi truyền thống”.

Bài đăng KH&PT số 1351 (số 27/2025)