Những tưởng voi ma mút là họ hàng duy nhất của loài voi hiện đại, thế nhưng nhà cổ sinh vật học đã vén lên bức màn quá khứ và phát hiện thời tiền sử loài voi còn có nhiều họ hàng hơn thế.

Trong thời kỳ Băng hà từ khoảng 11.700-2 triệu năm trước, loài voi đã du hành qua nhiều vùng đất trên hành tinh này. Chúng không chỉ sống ở châu Phi và Nam Á, mà lang thang từ Bồ Đào Nha sang lục địa Á-Âu, tới những khu vực lạnh lẽo của Alaska cổ đại và xuống Nam Mỹ. Bên cạnh voi ma mút, voi răng mấu, các nhà cổ sinh vật học đã khai quật được nhiều hóa thạch có hình thái vô cùng lạ lùng.

Về mặt khoa học, voi thuộc bộ Có vòi hay bộ Mũi dài (Proboscidea) vì bộ phận sau này sẽ tiến hóa dài ra. Loài voi đầu tiên xuất hiện cách đây khoảng 60 triệu năm. Từ những sinh vật nhỏ bé và tương đối hiền hòa, các động vật có vòi cuối cùng đã tiến hóa thành những con vật ăn cỏ khổng lồ, kềnh càng với nhiều kiểu ngà và hình dáng khác nhau.

Phosphatherium

Nếu nhìn thấy con vật này ngoài đời, hẳn bạn sẽ không nhận ra nó thuộc họ voi. Xuất hiện từ 56 triệu năm trước, Phosphatherium trông giống chuột đá lớn. Nhưng các chi tiết giải phẫu từ hóa thạch Phosphatherium phát hiện ở Morocco cho thấy con vật nhỏ bé này có chung một số đặc điểm quan trọng với loài voi mà các loài động vật có vú khác không có, như một phần xương hàm trên tạo thành viền của hốc mắt và răng cửa dưới lớn hơn.

Phosphatherium trông giống chuột đá hơn là voi hiện đại.
Phosphatherium trông giống chuột đá hơn là voi hiện đại.

Theo những vết xước vô cùng nhỏ trên răng hóa thạch, các nhà cổ sinh vật học suy đoán rằng Phosphatherium gặm lá cây bứt từ bụi rậm, có lẽ chúng cũng ăn sâu bọ hay cả động vật nhỏ khi kiếm ăn trong bụi cây, nhưng lá cây vẫn là món chính. Họ nhận thấy mấu răng của loài vật này là tiền thân của những chiếc răng hàm rộng mà các loài voi sau này sẽ dùng để nghiền nát thực vật.

Moeritherium

Năm 1901, các nhà cổ sinh vật học khai quật tại sa mạc Fayum (Ai Cập) tìm thấy bộ xương của một con vật hữu nhũ kỳ lạ sống trong các vùng đất ngập nước khoảng 36 triệu năm trước. Có tên là Moeritherium, con vật này cao hơn 70 cm tính từ chân tới vai, cơ thể dài và tròn trịa tới nỗi nó phải nặng hơn 227 kg. Hộp sọ của nó cũng có hình dạng lạ lùng: dài và dẹt, nhưng lại có những chiếc răng cửa lớn, giống như ngà ở cả hai hàm.

Moeritherium là loài voi lưỡng cư sống trong các đầm lầy cổ xưa.
Moeritherium là loài voi lưỡng cư sống trong các đầm lầy cổ xưa.

Moeritherium không phải tổ tiên của loài voi hiện đại. Sinh vật này thuộc về một nhánh đầu tiên phát triển mạnh ở môi trường sống ẩm ướt tại châu Phi cổ đại và rồi hoàn toàn biến mất. Trên thực tế, các nhà khảo cổ đặt giả thuyết rằng Moeritherium sống giống hà mã hơn là voi. Các dấu vết địa hóa học trong xương chịu ảnh hưởng từ nguồn nước tiền sử, chẳng hạn như loại nước mà nó uống và ở dưới nước bao lâu, gợi ý Moeritherium là động vật ăn cỏ lưỡng cư kiếm ăn ở vùng nước nông.

Barytherium

Trong hơn 20 triệu năm, các động vật có vòi có hình thể tương đối nhỏ. Con lớn nhất có kích thước tương đương với lợn rừng lớn, vẻ ngoài chẳng hề giống loài voi hiện đại. Tuy nhiên, khoảng 33 triệu năm trước, một số động vật có vòi bắt đầu to hơn. Barytherium là một trong những con vật khổng lồ đầu tiên, được tìm thấy trong các ngọn núi đá ở Ai Cập.

Tính từ chân lên vai, Barytherium cao gần 2 m, nặng khoảng 2 tấn. Tuy nhiên, hộp sọ của nó khác biệt so với cả những con vật tiền thân và họ hàng sau này. Nó có bốn ngà ngắn ở hàm trên và hàm dưới, có thể được che bằng chiếc mũi dày giống hải cẩu voi. Tuy không phải tổ tiên của voi ma mút hay các loài voi gần đây hơn, Barytherium vẫn đánh dấu thời điểm các loài thuộc bộ Có vòi bắt đầu tăng kích thước và tiến hóa các kiểu sắp xếp ngà mới.

Deinotherium

Deinotherium, có nghĩa là quái thú khủng khiếp, là một trong những loài voi hóa thạch đầu tiên mà các nhà cổ sinh vật học khai quật được vào năm 1829. Các chuyên gia ban đầu không chắc chắn đây là sinh vật gì. Có lẽ Deinotherium là con heo vòi khổng lồ có ngà. Sau đó, chuyên gia khác suy đoán rằng bộ xương này có thể là họ hàng với lợn biển khổng lồ, hay dùng cặp ngà mọc ngược ra sau để neo mình xuống đáy biển khi ngủ. Tới giữa thế kỷ 19, các chuyên gia mới nhận ra Deinotherium là loài voi hóa thạch khổng lồ, chuyên ăn cỏ, sống trên khắp châu Phi và lục địa Á-Âu từ 1-15 triệu năm trước.

Deinotherium là động vật có vòi lớn. Những cá thể lớn nhất cao gần 4 m và nặng hơn 10 tấn. Chúng có cặp ngà mọc ngược về phía sau ở hàm dưới. Không ai biết tác dụng của nó là gì, có giả thuyết cho rằng chúng dùng cặp ngà để gạt cành cây ra khi lựa những chiếc lá tươi non nhất.

Amebelodon

Trong số các loài voi hóa thạch được khai quật tới nay, không có loài nào khó hiểu như “voi ngà xẻng”. Amebelodon là một trong những loài voi kỳ lạ này. Chúng là động vật ăn cỏ đã sinh sống ở miền Trung Bắc Mỹ khoảng 5-15 triệu năm trước, với đặc điểm nổi bật là hàm dưới kéo dài có cặp ngà dài, đầu tù, tạo thành hình dáng như chiếc xẻng.

Khi Amebelodon được đặt tên vào năm 1927, hình dáng hàm dường như gợi ý rằng con voi này xúc thực vật mềm từ ao hồ lên để ăn. Nhưng phân tích sau này cho thấy cặp ngà bị mài mòn gợi ý về điều gì đó khác. Amebelodon sinh sống trong rừng, lùng sục trong cây cối và sử dụng cặp ngà hàm dưới để tước vỏ cây. Hàm răng của những con voi ngà xẻng khác, như Platybelodon từ châu Á, cũng được diễn giải tương tự là công cụ nạo và cắt thực vật thay vì xẻng.

Stegodon

Nhiều loài voi hóa thạch có kích thước khổng lồ trong môi trường sống của chúng, cao hơn và đồ sộ hơn hẳn phần lớn các động vật ăn cỏ khác. Nhưng đôi khi, tác động của môi trường xung quanh cũng khiến các loài voi tiền sử thu nhỏ lại. Một số loài voi hóa thạch thuộc chi Stegodon có thể cao gần 4m và nặng hơn 12 tấn, nhưng Stegodon ở đảo Flores (Thái Bình Dương) lại nhỏ cỡ con bê và chỉ cao 1,2 m.

Một số loài thuộc chi Stegodon phát triển mạnh ở châu Á cổ đại từ 12.000 – 12 triệu năm trước. Khi quần thể này tản ra, một số con Stegodon di cư tới các hòn đảo nhỏ ở Đông Nam Á, bao gồm Flores, nơi đây đã xuất hiện loài người tiền sử tí hon Homo floresiensis. Quá trình tiến hóa thường diễn ra theo những cách kỳ lạ trên các hòn đảo này, trong trường hợp của voi thì Stegodon đã trở nên nhỏ hơn nhiều. Sự thay đổi này nhiều khả năng là vì những con vật này phải thích nghi với diện tích đất nhỏ hơn, có ít đồ ăn cho voi hơn. Ngoài ra, nơi đây không có các loài động vật ăn thịt máu nóng cần nhiều thức ăn (như sư tử), tạo điều kiện cho loài voi sinh sản chậm duy trì quần thể ở đây.

Nguồn:

smithsonianmag.com

Bài đăng KH&PT số 1339 (số 15/2025)