Một học giả sinh ra cách đây 100 năm, Phan Ngọc, bằng cuộc đời và tác phẩm của mình, vẫn như đang tồn tại sống động giữa chúng ta. Ông cổ vũ những nỗ lực trí tuệ theo hướng nghiên cứu liên ngành, và đồng thời đi ra khỏi vai trò một nhà khoa học thuần túy để khuyến khích đầu óc cởi mở ở người đọc.


Học giả Phan Ngọc đã để lại nhiều tác phẩm dịch và công trình nghiên cứu có giá trị. Nguồn: INT
Học giả Phan Ngọc đã để lại nhiều tác phẩm dịch và công trình nghiên cứu có giá trị. Nguồn: INT

1. Trong những năm gần đây, xuất hiện khuynh hướng nghiên cứu liên ngành, được hiểu như một cách tiếp cận trong đó có sự hợp tác của từ hai ngành khoa học trở lên1. Định nghĩa này không thể hiện được một phương diện ít được bàn tới trong hiện tượng nghiên cứu liên ngành. Đó là, tại các thiết chế giáo dục bậc cao từ giữa thế kỷ 20 trên phạm vi toàn cầu, việc đào tạo các nhà nghiên cứu đều hướng tới mô hình nhà chuyên môn (specialist) - những người có khả năng phát triển để chuyên môn hóa cao độ, có thể trở nên chuyên gia ở một lĩnh vực rất nhỏ. Sự chuyên biệt hóa này, nếu quả thật trở nên hiện thực, đã được nhiều học giả, như Jurgen Habermas, cảnh báo, sẽ đưa tới tình thế bế quan giữa các cá nhân trong xã hội và các chủ đề công cộng ít nhận được sự thảo luận của số đông. Nói cách khác, việc chuyển hóa từ những trí thức được đào tạo theo mô hình nhà chuyên môn để trở nên tôn trọng, nhận biết, và ở mức độ nào đó, thành thạo cách tiếp cận từ ngành khoa học thứ hai là rất khó. Liệu những bậc thầy, với lòng tự tôn rất lớn, có thể chấp nhận cúi đầu để trở thành học trò trong một lĩnh vực hoàn toàn mới? Do vậy, yêu cầu về nghiên cứu liên ngành, trước hết, không phải ở khả năng chuyên môn, mà ở các mức độ cởi mở đầu óc của các nhà khoa học.

Bài viết này mời gọi người đọc, trong khi hướng tới những triển vọng không thể phủ nhận của xu hướng nghiên cứu liên ngành, chú ý tới sự cởi mở đầu óc của các học giả. Giữa các nhân vật danh tiếng, người viết cho rằng học giả Phan Ngọc (1925 – 2020) có thể giúp người đọc hôm nay rọi sáng vấn đề trên.

Trong đám tang của ông, gia đình đã không tóm tắt sự nghiệp của ông bằng chức danh Phó Giáo sư cao quý và xứng đáng, và điều này có thể là theo ý hướng của ông. Ông chỉ là “học giả Phan Ngọc”, một người cố gắng tìm cách trả lời những câu hỏi tự mình đặt ra ngay từ khi còn là một cậu bé và tìm thấy niềm vui trong sự kiên nhẫn ấy2. Phan Ngọc, do đó, cuốn hút các thế hệ trí thức, và cả những người đang rèn luyện bản thân để trở thành trí thức, không phải bởi địa vị xã hội hay danh tiếng, mà bằng chính cuộc đời và các tác phẩm của mình. Những “người hâm mộ” chưa có cơ hội trò chuyện trực tiếp với ông, bao gồm cả người viết, đã để lại trong sổ tang những lời cảm tạ ông, người đem lại nguồn cảm hứng nghiên cứu cho nhiều trí thức thuộc các ngành khoa học rất khác nhau.

2. Bài viết tập trung vào trường hợp tiếp nhận nguồn cảm hứng từ Phan Ngọc của một học trò chính thức của ông, kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào (sinh năm 1971).

Kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào (trái) là một trong những người tiếp nhận nguồn cảm hứng nghiên cứu liên ngành từ học giả Phan Ngọc. Nguồn: HTH
Kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào (trái) là một trong những người tiếp nhận nguồn cảm hứng nghiên cứu liên ngành từ học giả Phan Ngọc. Nguồn: HTH

Từ thời sinh viên, Hoàng Thúc Hào đã tỏ lộ tài năng trong ngành nghề kiến trúc. Ngay sau khi ra trường trong thập niên 1990, anh liên tục có những thành công lớn, dự báo một sự nghiệp danh tiếng sau này. Dẫu vậy, anh không tự hài lòng với mô hình đào tạo người chuyên môn tại trường đại học, cho nên đã cố tìm học những người là chuyên gia trong các lĩnh vực không thật sự liên quan tới kiến trúc như nghề thủ công, toán học, văn học, v.v. Trong đà hăng hái của tuổi trẻ, anh đã tìm đọc được Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới của Phan Ngọc, ít lâu sau khi sách xuất bản năm 1994. Đầu óc của Hoàng Thúc Hào bị kích động. Chưa bao giờ anh đọc một tác phẩm gây kích thích tới vậy, liên kết các kiến thức anh đã đọc đâu đó, và đồng thời, gây cho anh rất nhiều sự khó chịu. Những câu văn tranh luận và những lời khẳng định chắc như đinh đóng cột của Phan Ngọc quá xa lạ đối với chàng trai trẻ. Năm năm liên tục, từ 1994 tới 1999, anh đã tấn công, phản bác, và tranh luận với từng luận điểm một của Phan Ngọc. Cuối cùng, anh đã từ bỏ nỗ lực của mình, vì nhận ra bản thân mình phản đối Phan Ngọc cũng bởi chính những đòi hỏi nội tâm. Điều còn lại sâu đậm nhất trong khoảng thời gian dày đặc mà anh tạo nên những cuộc đối thoại tưởng tượng với Phan Ngọc chính là lòng ngưỡng mộ và kính trọng ông. Lòng ngưỡng mộ này mạnh hơn lòng tự tôn của một kiến trúc sư trẻ nhiều tiềm năng khi đó, thúc giục anh tìm mọi cách để được gặp Phan Ngọc, từ việc liên hệ với cơ quan của ông, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, nhờ người quen giới thiệu với gia đình ông... Tết năm 2000, nhân dịp anh tới thăm gia đình ông, Phan Ngọc đã dành cho Hoàng Thúc Hào một nghi thức trang trọng và giản dị, đồng ý chấp nhận anh làm học trò. Ông để tay lên một quyển sách của triết gia Immanuel Kant, và tuyên bố anh là học trò của ông. Đối với một con người lớn lên trong môi trường Nho giáo, thừa nhận mình là thầy giáo đồng thời là tự nguyện ở trong một sự ràng buộc đạo đức và trí tuệ khắt khe. Từ đó, ông sẵn sàng chỉ dạy anh toàn những điều trái với chuyên môn kiến trúc của anh, từ văn học, nghệ thuật, triết học, và các ngành khoa học xã hội. Những buổi học một kèm một ấy dường như dần dà thay đổi cách làm việc của anh3. Anh luôn tự hào nói mình là học trò của Phan Ngọc, và ông là người ảnh hưởng rất nhiều tới sự nghiệp của anh hiện tại. Anh cũng nói với người viết rằng, dường như không có Phan Ngọc, thì sẽ không có Hoàng Thúc Hào như hiện tại.

Vậy, Hoàng Thúc Hào thật sự đã học được những gì từ Phan Ngọc? Anh đã được rèn luyện để nắm bắt những khái niệm trong lý thuyết về văn hóa của Phan Ngọc. Khái niệm “bản sắc văn hóa” (cultural identity) của ông được trình bày “là cái linh hồn của văn hóa, cái phần ổn định trong khi các biểu hiện của văn hóa là vô cùng đa dạng, thay đổi theo thời gian, kinh tế, chế độ chính trị. Nó là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài vượt ra ngoài sự quan sát của nhân loại học và dân tộc học vốn chỉ xét ở biểu hiện, ở bề mặt”4. Một người trẻ, không thuộc nền văn minh châu Âu, không quen được rèn luyện trong truyền thống triết học theo kiểu phương Tây, và chưa có kinh nghiệm về nhiều nền văn hóa khác nhau, tất nhiên, rất khó thâu nhận định nghĩa này của Phan Ngọc. Hoàng Thúc Hào, lần hồi, đã hiểu được điều mà Phan Ngọc cố gắng nói với anh năm xưa, ở trong kiến trúc, lĩnh vực chuyên môn của anh. “Năm 40 tuổi, tôi mới hiểu rằng bản sắc là cái riêng trong bối cảnh tương quan với những cái khác,” anh nói.

Hoàng Thúc Hào đã tự đặt câu hỏi: liệu có thể hình thức hóa bản sắc văn hóa của một cộng đồng thành một loạt tham số có thể được điều tra một cách khách quan không và phải chăng điều làm nên bản sắc văn hóa của một cộng đồng có thể được định nghĩa bằng tương quan giữa các tham số. “Khi khảo sát kiến trúc Bắc Bộ, tôi thấy từ tâm của nhà năm gian, nghĩa là, từ bàn thờ ở giữa nhà, tôi kẻ một góc mở ra phía Nam, thì tôi chỉ mở được một góc 900. 2700 còn lại thì hầu như đóng. Chúng ta [người Bắc Bộ] không có kiến trúc đóng tuyệt đối”.

Hoàng Thúc Hào mới chỉ ra một tham số có thể được tìm thấy trong một lĩnh vực dễ dàng để trừu tượng hóa là kiến trúc. Triển vọng sử dụng cách tiếp cận của Phan Ngọc trong kiến trúc, do đó, là rất lớn.

3. Các tác phẩm của Phan Ngọc, tới lượt nó, thật thế, có thể chứa các diễn giải đa nghĩa, mời gọi các nhà nghiên cứu thuộc nhiều ngành khác nhau cùng tìm hiểu. Nhà nghiên cứu văn học Lê Thị Thanh Tâm đã phát hiện Phan Ngọc luôn cố gắng xét lại cùng một chủ đề. Hai tiểu luận của ông về Nguyễn Trãi – “Nguyễn Trãi: người đặt nền móng cho một nền văn hóa dân tộc” in trong tuyển tập Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới (1994) và “Cách tiếp cận Nguyễn Trãi trên cơ sở hệ thống ứng xử vật chất của Việt Nam” in trong công trình được xem như bổ sung cho tác phẩm thứ nhất, Một cách tiếp cận văn hóa (2000) – chứa lần lượt mười và năm luận điểm, ở một số điểm mâu thuẫn với công trình còn lại. Theo Lê Thị Thanh Tâm, điều này cho thấy Phan Ngọc chống lại thái độ “độc quyền chân lý”, luôn cố gắng tự phê phán chính mình5.

Tự phê phán một cách tích cực chính mình và khuôn khổ của ngành khoa học mình theo đuổi dường như là một phương cách nhằm rèn luyện thái độ cởi mở, là tiền đề của nghiên cứu liên ngành? Phan Ngọc vì vậy, theo người viết, đã không đề xuất một cách giải quyết thuần túy trong các hoạt động hàn lâm. “Thuần túy hàn lâm”, “nhà khoa học thuần túy”, hay “học giả tháp ngà” là các cụm từ để chỉ hoạt động nghiên cứu tuyệt đối trừu tượng, khách quan, tách rời khỏi mọi ứng dụng thực tế6. Theo nghĩa này, thái độ tự phê phán của Phan Ngọc có tính chất thực tiễn cao độ. Ông ngầm ẩn cho rằng các nhà nghiên cứu cần tự phê phán chính mình bằng cách tiếp thu một cách tích cực thành tựu của các nền văn minh, hoặc “đứng lên vai những người khổng lồ” như cách ông thường diễn đạt. Chỉ khi nhà khoa học tự phê phán một cách gay gắt các lập luận, suy nghĩ của mình, họ mới biết được bằng gan ruột về sự vô tư trong đánh giá, từ đó, họ có thể thấy triển vọng nghiên cứu ở sự hợp tác với các ngành khác. Hơn nữa, bản thân nhà nghiên cứu không thể tự biết giới hạn của chính mình và của ngành khoa học mình theo đuổi, nếu như không có một cái nhìn xa và rộng cùng một số hiểu biết nhất định về các ngành khoa học khác. Phan Ngọc dường như khẳng định tiến trình tự phê bình, tự đánh giá nghiêm khắc ngành khoa học của mình cần được diễn ra đồng thời với việc rèn luyện sự cởi mở để tiếp thu thành tựu của những ngành khác.

-------

[1] Vũ Thị Mỹ Hạnh (2018). “Nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội: Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa học”. Thông tin Khoa học xã hội, số 4, tr. 53.

[2] Phan Ngọc (2017). “Con đường đi vào ngôn ngữ học của tôi”. in trong: Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). Lược sử Việt ngữ học. Vinabooks & Nxb Tri thức. Hà Nội. tr. 901.

[3] Trao đổi giữa Hoàng Thúc Hào với tác giả trong năm 2022 - 2024.

[4] Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. Nxb Văn hóa Thông tin. Hà Nội, tr. 31.

[5] Lê Thị Thanh Tâm (2020, 19/05). “Tinh thần đối thoại văn hóa qua một số công trình nghiên cứu Việt Nam của Phan Ngọc”. Văn hóa Nghệ An. vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/14000-tinh-than-doi-thoai-van-hoa-qua-mot-so-cong-trinh-nghien-cuu-viet-nam-cua-phan-ngoc.

[6] Aronson J K. (2024, 27/09). “When I use a word… Purely academic”. BMJ. https://doi.org/10.1136/bmj.q2128.

Bài đăng KH&PT số 1327 (số 3 đến số 5/2025)