Hữu Ngọc có thể viết những tác phẩm đồ sộ đồng thời lại viết những tập sách thường thức về văn hóa nước nhà dành cho bạn bè ngoại quốc. Thực tế này đến từ bối cảnh lịch sử nơi ông đã lớn lên.
Trước mắt tôi là các công trình thời danh của Hữu Ngọc (1918-2025) như Lãng du trong văn hóa Việt Nam ấn bản tiếng Anh trong lần tái bản năm 2023 dày 1.266 trang; bộ sách ba tập do ông chủ biên về các công trình của học giả Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) in năm 1998, chỉ hai năm sau khi tác giả qua đời tại Pháp, dày 3.948 trang; hai tập sách Cảo thơm lần giở, phổ biến các kiến thức chung và kinh nghiệm đọc của ông về khoảng 180 tác giả quan trọng trong lịch sử nhân loại, dày 848 trang; và bộ sách khổ bỏ túi hơn 20 tập, trong đó mỗi tập chưa đến 100 trang, mà ông cùng nhà văn Lady Borton (1942) chủ biên hoặc trực tiếp viết về các khía cạnh của văn hóa Việt Nam. Với tư cách một độc giả bình thường nhất, Hữu Ngọc hiện ra trong mắt tôi như một tác giả lạ thường, sản xuất những tác phẩm đồ sộ đồng thời lại có thể viết những quyển sách thường thức về văn hóa nước nhà cho các độc giả phổ thông ngoại quốc. Tôi cho rằng thực tế này đến từ bối cảnh lịch sử nơi ông đã lớn lên.
Hữu Ngọc, cho tới khi sắp qua đời, là một trong những nhà báo ngoại giao quan trọng nhất Việt Nam suốt từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Vị trí nổi bật nhất trong sự nghiệp của ông là Tổng Biên tập của Nhà xuất bản Ngoại văn, nay là Nhà xuất bản Thế giới, và của Vietnamese Studies, một tạp chí nghiên cứu khoa học về các vấn đề Việt Nam xuất bản định kỳ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp từ năm 1964 tới nay. Năm 2020, ở tuổi 102, ông khiến độc giả kinh ngạc khi xuất bản hai tập sách Cảo thơm lần giở, thành quả của nhiều năm ông giữ mục cùng tên cho báo Sức khỏe và Đời sống số cuối tuần, nơi ông đã trở nên cây bút quen thuộc từ năm 1998. Ít lâu sau khi xuất bản Cảo thơm lần giở, Hữu Ngọc đã thành lập một mục báo riêng của mình, Gió Đông – Gió Tây: Sổ tay văn hóa trên tuần báo Thế giới & Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Bộ Ngoại giao. Bài cuối cùng ông viết trên chuyên mục này là phần thứ hai của một chuỗi bài dài kỳ về nghệ thuật Mỹ, được xuất bản trên số báo giấy ra ngày 30/8/2024. Kể từ năm 1948, khi giữ vị trí chủ nhiệm tờ báo địch vận bằng tiếng Pháp L’Étincelle [Tia sáng], ông đã dành gần 80 năm cuộc đời để viết vô số các bài báo tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức nhằm giới thiệu các phương diện của Việt Nam tới bạn bè thế giới và ngược lại.
Nghề nghiệp này đã rèn luyện ông trở nên một con người có kiến thức rộng về nhiều nền văn hóa. Dạng kiến thức đó rất tương đồng với những trí thức tiểu tư sản hành nghề tự do sinh sống vào nửa đầu thế kỷ 20 mà ông hẳn quen thuộc. Họ có thể kiếm sống bằng cách viết trên các ấn phẩm như báo, tập san, sách, bằng tất cả các thể loại khả thi như tin vắn, tin giải trí, tường thuật, phóng sự, thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, dịch thuật,... Các tác giả lừng danh còn tồn tại trong lòng công chúng ngày hôm nay như Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), Phan Khôi (1887-1959), Khái Hưng (1896-1947) đều không ngoại lệ. Trong thời Pháp thuộc, những tờ báo là nền tảng phổ biến và hữu hiệu nhất để đưa tri thức của họ tới nhiều độc giả. Thậm chí, các tác phẩm nghiên cứu công phu cũng được gửi tới các tờ báo phổ thông, thay vì tới các tạp chí khoa học, các thiết chế của người Pháp hoặc thân Pháp. Việc bồi dưỡng trí tuệ, do đó, không phải chỉ đến từ việc đọc sách như nếp sống phổ biến của con người ngày hôm nay, mà chủ yếu từ sự đọc báo. Tố Tâm, nhân vật chính trong quyển tiểu thuyết cùng tên của Hoàng Ngọc Phách in năm 1925, được xem như tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của nền văn học Việt Nam, cũng rèn luyện trí tuệ bằng cách đọc các tờ báo, với hứng thú cá nhân ở mục thơ và xã luận. Xét vậy, sự tồn tại của Hữu Ngọc, dẫu cho ông không chỉ xuất hiện trên những tờ báo, mang đặc điểm của trí thức đầu thế kỷ 20: đều là những người sống suốt đời với những tờ báo cùng lý tưởng truyền bá kiến thức cần thiết cho người dân, ở một mức, có thể so sánh với ý chí hành đạo, giáo hóa dân chúng của những nhà Nho truyền thống.
Điều này dường như là lý do Hữu Ngọc, trong các bài phỏng vấn, không tự xem mình như nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, học giả [1]. Thật thế, hình mẫu của một học giả, kể từ nửa cuối thế kỷ 20, khi đã được thiết chế hóa một cách nghiêm ngặt, cần là người làm việc với tư cách một nghiên cứu viên hoặc giảng viên trong cơ sở nghiên cứu hoặc giáo dục bậc cao và tập trung vào một số ít lĩnh vực hẹp. Các tác phẩm của họ sẽ được phổ biến một cách giới hạn trong vòng tròn các đồng nghiệp và độc giả chuyên môn thông qua các ấn phẩm khoa học. Một số ít có thể trở nên những trí thức của công chúng (public intellectuals), đóng góp vào không gian thảo luận công dành cho đại chúng, nhưng không bao giờ quên chức năng xã hội mà họ phải hoàn thành. Nếu xem xét theo tuân chuẩn trên, Hữu Ngọc không hẳn là một học giả, dẫu các tác phẩm của ông có tính chất nghiên cứu, mà gần gũi hơn với mẫu hình trí thức tự do hoạt động sôi nổi trên những tờ báo trong khoảng nửa đầu thế kỷ 20.
Điều khiến Hữu Ngọc trở nên đặc biệt là sự nhạy cảm của ông, thứ được rèn luyện trong quá trình kinh nghiệm liên văn hóa trong suốt cuộc đời làm báo ngoại giao. Ông vì vậy tự định danh mình là người xuất – nhập khẩu văn hóa [2]. Đôi lúc có những chuyến hàng mà ông không thật sự hài lòng, nhưng nhiệm vụ đòi hỏi ông phải thực hiện. Năm 1987, Hữu Ngọc xuất bản một tác phẩm biên soạn Từ điển triết học giản yếu. Độc giả của mục Cảo thơm lần giở có thể hiểu được ông, dẫu lấy được bằng Tú tài ban Triết học, chẳng tí chút hào hứng với những suy luận trừu tượng. Thầy giáo môn Triết học của ông tại Trường Bưởi vào nửa cuối thập niên 1930, P. Foulon, đã say sưa giảng về Nietzsche, người đòi hỏi một cuộc xét lại toàn bộ nền triết học phương Tây hay Bergson, triết gia làm chao đảo học giáo Pháp bấy giờ, không gợi nên ở ông sự hào hứng. Hữu Ngọc, ngược lại, như một người Việt Nam truyền thống, thích các phẩm văn thơ cùng những câu chuyện cụ thể về tình cảnh sống lưỡng nan của con người.
Hữu Ngọc, có thể vì vậy, đã hoàn thành nhiệm vụ thực hiện những nỗ lực đầu tiên giới thiệu văn chương Việt Nam tới bạn bè quốc tế. Ông là một thành viên chủ chốt trong nhóm của học giả Nguyễn Khắc Viện (1913-1977) đã biên soạn và lựa chọn dịch một cách hệ thống các tác giả quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Năm 1979, bộ sách gồm bốn tập, dày hơn 2.000 trang, được xuất bản trong tiếng Pháp. Hai năm sau, năm 1981, ấn bản rút gọn trong tiếng Anh dày khoảng 1.000 trang được phát hành. Năm 1984, ông cùng cùng Francoise Correze phát hành tại Pháp tuyển tập giới thiệu văn học dân gian Việt Nam, Anthologie De La Litterature Populaire Du Viet Nam. Cũng trong năm 1984, hai ông đã cho in tại Pháp một tuyển tập thơ Việt Nam trong mối quan tâm đến vấn đề phụ nữ, Fleurs de Pamplemoussier. Năm 2002, ông chủ biên tuyển tập 1.000 năm văn học Việt Nam, Mille Ans de Littérature Vietnamienne, xuất bản tại Pháp.
Được xem như tác phẩm tiêu biểu nhất của Hữu Ngọc, Wandering through Vietnamese culture, trong các ấn bản tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Việt, có thể gây choáng cho người đọc vì sự đồ sộ. Cảm giác tâm lý đó thực chất đã che giấu việc quyển sách này được cấu tạo một cách có chủ ý từ gần 600 bài báo ông viết đều đặn hằng tuần cho Vietnam News và Le Courrier Vietnam của Thông tấn xã Việt Nam ngay từ ngày thành lập báo. Trong ấn bản tiếng Anh, ông gọi các bài viết của mình là cultural snapshot [3], những cú bấm máy nhanh ghi lại ấn tượng trong đời sống văn hóa truyền thống của nước nhà và những biến đổi của chúng trong xã hội đương đại. Ông tự gọi ông là wanderlust, người ham thú du ngoạn [4], rất ghét cảnh phải ngồi yên một chỗ [5] với những suy nghĩ miên man, trừu tượng mà hẳn ông thờ ơ, chán nản môn Triết học cũng vì lý do này. Trong thời học sinh, ông mong muốn được lên miền ngược, lấy một cô vợ người dân tộc thiểu số, sống một cuộc đời chân thật [6]. Cuộc đời ông, dẫu không cho ông lấy người vợ như mơ, vẫn đem lại cho ông những chuyến đi dài cả trong thực tế lẫn trong tâm tưởng, cùng một công việc, hay có thể nói như người Đức, một beruf (bổn phận thiêng liêng và nghề nghiệp) rèn luyện cho ông mỗi ngày về sự tiếp xúc đa văn hóa với tư cách như phương tiện giúp ông có thể sống một cuộc đời chân thật, theo một cách khác.
Chú thích
[2] Như trên.
[3] Hữu Ngọc (2007). Wandering through Vietnamese culture. Nxb Thế giới. Hà Nội, tr. 9.
[4] Như trên.
[6] Hữu Ngọc (2020). Cảo thơm lần giở: quyển 2. Nxb Kim Đồng. Hà Nội, tr. 391.
Bài đăng KH&PT số 1343 (số 19/2025)