Lịch sử của cây xanh đô thị là lịch sử của những diễn ngôn khác nhau về cây, hình thành từ sự giao thoa giữa chính trị, triết học, kỹ thuật và thẩm mỹ.


Trong lúc lịch sử của cây đô thị ở các nền văn minh khác còn ít hiện diện trong các nguồn tài liệu tiếng Anh, câu chuyện tương tự ở phương Tây đã được nghiên cứu nhiều hơn, đủ để cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng thể.

Từ tính thiêng đến vùng cấm


Cây có thể có tính thiêng không? Những thời đại và vùng đất khác nhau có cái nhìn khác nhau về điều đó. Tôn giáo đa thần của người Hy Lạp cổ đại gán tính thiêng cho nhiều loài cây: gán olive với Athena, gán sồi với Zeus, gán nguyệt quế với Apollo… Vì thần thoại là chất liệu quen thuộc mà người Hy Lạp cổ dùng để xây dựng thơ, kịch, lễ hội và triết học, các loài cây thường xuyên hiện diện trong mạng lưới biểu tượng mà con người dùng để suy nghĩ vào thời kỳ này. Không đáng ngạc nhiên, khi họ trồng hàng cây dọc các lối đi đến đền thờ, và xây những học viện như Lyceum hay Academy giữa các trảng rừng du xanh tốt. Người La Mã duy trì truyền thống này: ngôi đền đầu tiên của thành Rome là đền Jupiter Feretrius, được Romulus xây trên đồi Capitolium, nơi có một cây sồi cổ thụ mà các mục đồng cho là gắn với thần Jupiter. Năm 33 TCN, chương trình cải tạo đô thị của Augustus không chỉ bao gồm việc xây dựng hệ thống cấp nước và nhà tắm công cộng đầu tiên cho thành Rome, mà còn bao gồm việc trồng cây quanh các công trình công cộng, lăng mộ và đền thờ, nhằm phục hưng tôn giáo truyền thống của Rome, vốn gắn với các cây cổ thụ và các khu rừng thiêng (lucus). [1]

Vào thời Trung cổ, các tôn giáo đa thần ở châu Âu dần bị thay thế bởi một tôn giáo độc thần: Kito giáo. Vì hai mục đầu tiên trong 10 điều răn của Chúa được dành để cấm thờ ngẫu tượng, và vì Sáng Thế ký xem con người là chủ thể được Chúa giao cai quản và khai thác thiên nhiên, cây cối mất đi tính thiêng, và hệ biểu tượng bao gồm các sinh thể trong thiên nhiên được thay bằng hệ biểu tượng bao gồm các câu chuyện trong Kinh Thánh. Cây chỉ còn hiện diện như một phương tiện để truyền đạt các ẩn dụ trong Kinh Thánh: chẳng hạn, các cành cây rẽ nhánh thay vì tái hợp được dùng để tượng trưng cho sự chia cắt vì tri thức trong câu chuyện về “cây Thiện-Ác” trong vườn Eden. Nhiều điều luật thành văn, như Khoản 5 trong Luật Vua Cnut ở nước Anh thế kỷ XI, khiến những người thể hiện sự yêu thích đặc biệt với cây rừng có thể bị xử tử do tình nghi là “theo ngoại giáo”.

Do óc nhị nguyên này, các truyện dân gian thời Trung cổ thường mô tả rừng như một cõi đáng sợ của ma quỷ và phù thủy. Từ đây, cây vừa là một thế lực thù địch, vừa là một đối tượng để khai thác, trong một mối quan hệ mang tính thống trị và tước đoạt thay vì cộng sinh. Trong khi các thị dân Trung cổ không trồng cây nào trừ rau củ và cây thuốc, khiến cây đô thị không tồn tại, các lãnh chúa, tức chủ nhân của thành thị, thường sở hữu các khu rừng cấm mà chỉ họ mới được phép đi săn ở đó. Như vậy, cây rừng tham gia mạng lưới biểu tượng thời Trung cổ dưới tư cách một vùng cấm mà chỉ người cầm quyền mới có thể chạm đến bằng bạo lực, và cũng chính bạo lực ấy ngăn nó khỏi sự tiếp cận của các thường dân.

Tự do hóa không gian xanh


Vào thế kỷ XV, thời Trung cổ khép lại bằng phong trào khôi phục các giá trị Hy Lạp - La Mã. Việc nghiên cứu và ứng dụng các tác phẩm cổ điển đã dẫn đến sự hồi sinh đồng loạt của vô số biểu tượng có xuất xứ thiên nhiên như họa tiết cây cỏ trên các cột Corinth. Khu vườn cảnh trong các tư gia, một di sản của kiến trúc Hy Lạp và La Mã cổ điển, bỗng trở thành một mốt đua đòi mới của các quý tộc châu Âu. Nhiều vườn cảnh lớn, như Công viên Hyde ở London, đã mọc lên trên chính mảnh đất từng là khu rừng săn hươu cũ.

Nhưng trong thẩm mỹ Phục hưng, thiên nhiên không tồn tại như nó vốn là, mà được khúc xạ qua các lăng kính lý tưởng hóa của toán học và thần học. Nếu Pythagoras từng gắn đức hạnh cho các tỉ lệ hài hòa mà toán học có thể tìm thấy trong thiên nhiên, thì những người đọc Pythagoras vào thế kỷ XIII bắt đầu đánh đồng các tỉ lệ này với bàn tay Thiên Chúa. Từ phong cách vườn Phục hưng Ý (thế kỷ XV–XVI), nơi các lối đi, bậc thang và tượng đài được sắp đặt theo tỉ lệ vàng và sự đối xứng, người ta tiến đến phong cách vườn Phục hưng Pháp (thế kỷ XVI), nơi những tán cây được cắt tỉa thành các khối cầu, kim tự tháp hoặc mê cung. Vào thế kỷ XVII, huynh hướng này được đẩy đến mức cực độ ở Vườn Versailles, nơi các cây được cắt tỉa để tôn vinh Thời đại Lý tính đang mở ra, và trục trung tâm được kéo dài đến vô tận để tạo một cảm giác choáng ngợp nhằm tôn vinh uy quyền của Louis XIV. Một lần nữa, những cái cây trở thành vật mang vác các biểu tượng nhằm xiển dương quyền lực, lần này là quyền lực của tri thức, trật tự và thịnh vượng – điều mà giới quý tộc trên lưng ngựa buộc phải chia sẻ với một lượng ngày càng lớn các công chức dân sự, học giả, nghệ sĩ và thương nhân. Chính trong thế kỷ XVI-XVII, ở Amsterdam, Florence và London – ba thành phố cho thị dân lượng quyền lực tương đối lớn so với mặt bằng chung của châu Âu – các khu vườn quý tộc sẽ trở thành mẫu hình để thiết kế những không gian xanh đầu tiên dành cho công chúng.

Trong lúc các hàng cây ven sông ở Florence và hai hàng cây ven đường ở Versailles được nhiều thành phố châu Âu sao chép, nhiều bước ngoặt tư tưởng và thẩm mỹ đã xảy ra. Sau khi Johannes Kepler (1571-1630) khám phá quỹ đạo hình elip của các thiên thể, và hội họa Baroque giới thiệu các bức tranh được vẽ theo trục xiên, trật tự hài hòa của vũ trụ bị nghi ngờ, và cái đẹp không còn được đánh đồng với tính đối xứng. Đầu thế kỷ XVIII, khi châu Âu đang hoang mang vì sự sụp đổ của các tư tưởng cũ, William Kent (1685-1748), một họa sĩ vẽ tranh phong cảnh, đã lấy các phế tích quanh thành Rome làm nguồn cảm hứng để thiết kế phong cách vườn Anh. Lần này, những cái cây không còn bị cắt tỉa thành các khối hình học, mà mọc trùm lên các phế tích giả nằm cạnh hồ nước hoặc lối đi quanh co, nhằm bắt chước ấn tượng về thiên nhiên trong các bức tranh phong cảnh đương thời: một thiên nhiên vượt khỏi tầm kiểm soát của quyền lực - tri thức đang đổ nát.

Đầu thế kỷ XIX, sau khi Cách mạng Pháp đưa trật tự phong kiến ở châu Âu vào một cuộc sụp đổ dứt điểm, các chính quyền Pháp kế cận biến các khu vườn quý tộc thành công viên công cộng, đồng thời lên kế hoạch trồng thêm cây xanh. Họ buộc phải làm vậy vì một nhận thức mới của các thị dân: khi chủ nghĩa lãng mạn - một thẩm mỹ phê phán cách mạng công nghiệp - đặt các thành phố bị ô nhiễm và quá tải vì công nghiệp hóa ở thế đối lập với các vùng quê có không gian xanh, người ta bắt đầu xem không gian xanh như một quyền mà mọi người đều xứng đáng được hưởng. Trong công cuộc cải tạo Paris do Napoleon III ủy quyền cho Georges-Eugène Haussmann (1809-1891) thực hiện hồi giữa thế kỷ, người Pháp đã trồng 600.000 cây và mở 2.000 hecta không gian xanh, gồm bốn công viên lớn và 24 quảng trường cấp quận, chỉ trong 17 năm. Dù Napoleon III tiến hành cuộc hiện đại hóa đô thị này để lấy lòng thị dân Paris, việc san bằng các khu phố cũ khiến người nghèo mất nhà và mất kết nối cộng đồng đã góp phần dẫn đến cuộc nổi dậy của Công xã Paris năm 1871.

Công viên Birkenhead, Anh, là công viên đầu tiên trên thế giới được xây bằng ngân sách của thành phố và mở cửa miễn phí cho mọi công dân. Ảnh: placenorthwest.co.uk
Công viên Birkenhead, Anh, là công viên đầu tiên trên thế giới được xây bằng ngân sách của thành phố và mở cửa miễn phí cho mọi công dân. Ảnh: placenorthwest.co.uk

Năm 1847, chỉ sáu năm trước khi Haussman bắt đầu trồng cây trên phố, nước Anh khánh thành Công viên Birkenhead, công viên đầu tiên trên thế giới được xây bằng ngân sách của thành phố và mở cửa miễn phí cho mọi công dân. Mượn cảm hứng từ Birkenhead, Frederick Law Olmsted (1822-1903) đã thiết kế Công viên Trung tâm của thành phố New York, nơi lối đi, cây cối và tiểu cảnh được bài trí để liên tục tạo các vùng sáng tối tương phản, các kỳ vọng khám phá và các phát hiện bất ngờ trong mắt từng cá nhân dạo chơi trong nó. Là bạn qua thư của Marx và là một nhà báo đấu tranh chống chế độ nô lệ khi nước Mỹ đang đứng trên ngưỡng cửa nội chiến, Olmsted ấn định rằng công viên khổng lồ này sẽ không có rào chắn bao bọc, không có lối đi cho xe ngựa, và sẽ mở cửa cho con người thuộc mọi màu da. Ông tin rằng việc hàng vạn người, bất kể tầng lớp, đều đi bộ và gặp gỡ nhau trong công viên, sẽ góp phần tạo nên cảm giác cộng đồng trong một xã hội bình đẳng.[2]

Coulée verte René-Dumont, Paris, Pháp, nơi cây xanh đô thị được xem là chủ thể, và được thừa nhận quyền tự do, những quyền mà trước đây chỉ con người mới có. Ảnh: theparisianguide.com
Coulée verte René-Dumont, Paris, Pháp, nơi cây xanh đô thị được xem là chủ thể, và được thừa nhận quyền tự do, những quyền mà trước đây chỉ con người mới có. Ảnh: theparisianguide.com

Năm 1870, hơn một thập kỷ sau khi Olmsted nộp bản thiết kế Công viên Trung tâm New York, một người làm vườn Ireland tên William Robinson đã viết cuốn “Khu vườn hoang dã”, nêu quan điểm rằng khu vườn nên được thiết kế hài hòa với thiên nhiên. Áp dụng kiến thức về nông, lâm nghiệp, thay vì tỉ mẩn cắt tỉa cây cối như các cư dân khác của thời Victoria, Robinson chọn cây hợp khí hậu, thổ nhưỡng và địa hình của từng cảnh quan, trồng cây lâu năm và ít cần chăm sóc. Ở giao điểm giữa thế kỷ XX và XXI, khi cuộc khủng hoảng môi trường và các diễn ngôn sinh thái học buộc dư luận phải quan tâm đến lợi ích của thiên nhiên thay vì chỉ của con người, nhiều thành phố đã biến các công trình bỏ hoang thành các khu vườn đô thị, được trồng theo chủ nghĩa tự nhiên của Robinson. Lần đầu tiên kể từ thời Trung cổ, ở các công trình như Coulée verte René-Dumont (Paris, 1993) hay High Line (New York, 2009), cây xanh đô thị được xem là chủ thể, và được thừa nhận quyền tự do, những quyền mà trước đây chỉ con người mới có.


Nguồn tham khảo:



Bài đăng KH&PT số 1343 (số 19/2025)