Trong năm đầu triển khai đầy đủ hệ thống thu phí không dừng trên đường cao tốc cả nước, Việt Nam đã tiết kiệm được năng lượng, nhân lực, tuổi thọ phương tiện và chi phí vận hành với giá trị tương đương gần nửa tỷ USD - theo nghiên cứu mới của PGS. TS Vũ Minh Khương (Trường Chính sách công Lý Quang Diệu thuộc ĐH Quốc gia Singapore).

Sau khi được công bố trên website của ĐH Quốc gia Singapore, mới đây, ngày 4/12, đến lượt tạp chí khoa học Telecommunication Policy xuất bản bài báo của PGS. TS Vũ Minh Khương về lợi ích của thu phí không dừng ETC tại Việt Nam.

Bài báo có tên “Electronic Toll Collection (ETC) on Highways: Global Trends, Vietnam's Experience, and Policy Lessons”, dài gần 23 trang, nghiên cứu về quá trình chuyển đổi hệ thống ETC để quản lý đường cao tốc, các mô hình tương tự và lợi ích đo lường được qua con số.

Với cấu trúc gồm bảy phần, nghiên cứu đi từ việc khái quát các mô hình áp dụng ETC toàn cầu, bao gồm quá trình chuyển đổi tại Trung Quốc và Ấn Độ, đến việc chi tiết hóa những lợi ích tiềm năng của việc triển khai ETC trên đường cao tốc. Đặc biệt, tác giả dành phần lớn dung lượng để phác họa những nỗ lực đặc biệt của Việt Nam trong việc triển khai ETC trên đường cao tốc, và lượng hóa được chi tiết những lợi ích hữu hình mà ETC đã mang lại cho nền kinh tế 2019-2023 cũng như dự báo đến 2030 và đưa ra những gợi mở về chính sách.

Một trạm thu phí không dưng trên đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng. Nguồn:
Một trạm thu phí không dừng trên đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng. Nguồn: vetc.com.vn

Bắt đầu công cuộc đổi mới từ 1986, tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trong đó có mục tiêu phát triển hệ thống đường cao tốc là một trong những trọng tâm hàng đầu của chính phủ. Đến 2021, nước ta có 1.290 km đường cao tốc và mục tiêu là 5.000 km vào năm 2030. Quá trình đó cũng gắn liền với việc chuyển đổi quyết liệt từ hệ thống thu phí thủ công (MTC) sang ETC trên các tuyến quốc lộ, cao tốc từ 2019 đến nay và đã mang lại những kết quả ấn tượng: giảm đáng kể thời gian di chuyển, loại bỏ tình trạng tắc nghẽn giao thông tại các trạm thu phí, giảm mức tiêu thụ nhiên liệu và giảm lượng khí thải tương đương CO2. Qua đó, hiệu quả vận chuyển, môi trường và sức khỏe cộng đồng được cải thiện rõ rệt.

Năm 2023, năm đầu tiên triển khai đầy đủ ETC trên đường cao tốc cả nước, tổng lượng khí thải CO2 giảm được lên tới 191.860 tấn, nhờ giảm 60.816 tấn xăng và nhiên liệu diesel tiêu thụ tại các trạm thu phí. Cùng năm đó, xã hội tiết kiệm được 93,3 triệu giờ cho nhân lực và 37,3 triệu giờ cho tuổi thọ của phương tiện. Xét về giá trị tương đương bằng tiền, bài báo chỉ ra tổng chi phí tiết kiệm được cho năm 2023 qua bốn thước đo - năng lượng, nhân lực, tuổi thọ phương tiện và chi phí vận hành - lên tới 442,7 triệu USD. So với thời điểm bắt đầu thúc đẩy ETC năm 2019, lợi ích của việc giảm lượng khí thải tương đương CO2 và tổng tiết kiệm tương đương tiền đã tăng 14 lần. Tính chung cả giai đoạn 2019-2023, lợi ích mà Việt Nam có được từ việc triển khai ETC tương đương giá trị gần 1 tỷ USD.

Từ những kết quả ấn tượng nêu trên về việc triển khai ETC tại Việt Nam, PGS.TS Vũ Minh Khương và các đồng sự chỉ ra những bài học lớn cho quá trình chuyển đổi này tại các nền kinh tế đang phát triển.

Thứ nhất, cách tiếp cận chủ động, điều phối quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi. Tại Việt Nam, việc Chính phủ thành lập tổ công tác chuyên trách nhằm thúc đẩy việc áp dụng công nghệ trong phát triển cơ sở hạ tầng đã giúp quá trình triển khai ETC vượt qua những trở ngại ban đầu, thực thi các quyết định nhanh chóng trên diện rộng.

Thứ hai, sự tham gia của các công ty tư nhân trong việc triển khai và quản lý cơ sở hạ tầng ETC đã nâng cao hiệu quả, tốc độ triển khai và hoạt động. Quan hệ đối tác công-tư ở Việt Nam đã thúc đẩy sự đổi mới và hiệu quả, tận dụng chuyên môn và nguồn lực của khu vực tư nhân để đẩy nhanh việc áp dụng và nâng cao hiệu quả của hệ thống.

Thứ ba, việc triển khai hệ thống ETC cũng đánh dấu sự khởi đầu của quá trình chuyển đổi kỹ thuật số rộng hơn trong lĩnh vực vận tải, giao thông thông minh. ETC tạo ra dữ liệu có giá trị để quản lý lưu lượng nâng cao, phân tích kinh tế và ra quyết định kinh doanh. Các ứng dụng tiềm năng của ETC nên được mở rộng sang các hệ thống thanh toán kỹ thuật số tương tự cho thu phí nội đô, bãi đậu xe (e-parking), đổ xăng không tiền mặt hoặc các cơ sở thu phí khác.


Telecommunication Policy là tạp chí quốc tế chuyên về học thuật, tập trung vào các vấn đề liên quan đến chính sách, quản lý, và các khía cạnh kinh tế - xã hội của ngành viễn thông, internet, và các công nghệ truyền thông khác. Đây được coi là kênh thông tin uy tín dành cho các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, và các học giả làm việc trong các lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin. Tạp chí do Elsevier xuất bản hằng tháng, có chỉ số ảnh hưởng (Impact Factor) 7.00 vào năm 2023, phản ánh chất lượng và mức độ trích dẫn cao của các bài viết.



Nguồn: