Một nghiên cứu đã chỉ ra nhiều chiến dịch giảm nhu cầu tiêu thụ động vật hoang dã ở Việt Nam thiếu hiệu quả do dựa trên “chủ nghĩa môi trường không có cơ sở” – tức các hoạt động bảo vệ môi trường tách rời khỏi bối cảnh xã hội và văn hóa địa phương.
Nhiều năm qua, Việt Nam thường xuyên được xác định là một điểm nóng về tiêu thụ các sản phẩm từ động vật hoang dã, đặc biệt là các loài quý hiếm như tê giác, voi, hổ hay tê tê. Vì vậy, hàng loạt chiến dịch truyền thông giảm nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm từ động vật hoang dã đã được triển khai tại đây như “Nói không với sừng tê giác” (WWF, 2013) hay “Những kẻ cắn móng tay” (WildAid và CHANGE, 2016).
Tuy nhiên, trong nghiên cứu công bố trên tạp chí World Development, TS. Vũ Ngọc Anh, Giám đốc Nghiên cứu, Trung tâm Nghiên cứu Xã hội Quốc gia Vương quốc Anh (NATCEN), đánh giá những chiến dịch này phần lớn không mang lại hiệu quả thực sự. Dựa trên 53 cuộc phỏng vấn chuyên sâu với các nhà nghiên cứu xã hội học, nhà bảo tồn, tổ chức phi chính phủ, y sĩ y học cổ truyền và nhà báo tại Việt Nam cùng những quan sát thực địa, chị cho rằng phần lớn các chiến dịch này đều dựa trên “chủ nghĩa môi trường không có cơ sở” (ungrounded environmentalism) – một khái niệm chỉ những hành động bảo vệ môi trường tách rời khỏi thực tiễn văn hóa, xã hội và chính trị địa phương.
Theo TS. Vũ Ngọc Anh, chủ nghĩa môi trường này được coi là “không có cơ sở” vì nó thể hiện mong muốn của một nhóm “tinh hoa xuyên quốc gia” nhằm “cứu các loài có nguy cơ tuyệt chủng” hoặc các loài động vật hoang dã hoàn toàn xa lạ với cuộc sống của họ cũng như của các xã hội địa phương. Và họ thực hiện mong muốn bảo vệ của mình thông qua các tổ chức phi chính phủ quốc tế và địa phương - vốn phải tuân theo chương trình nghị sự của các nhà tài trợ. Họ tìm cách thúc đẩy các mục tiêu trừu tượng bảo vệ thiên nhiên và đa dạng sinh học thông qua người nổi tiếng, chiến dịch truyền thông và phương tiện truyền thông trực tuyến v.v.
Sự thiếu cơ sở còn biểu hiện ở việc giới tinh hoa xuyên quốc gia cố gắng ủng hộ và hiện thực hóa những ý tưởng trong tưởng tượng của họ, xoay quanh việc thay đổi lối sống và thói quen tiêu dùng của người khác, ở một nơi khác trong khi thiếu kiến thức và sự nhạy cảm với những khác biệt về văn hóa xã hội tại địa phương.
Nghiên cứu phân tích bốn biểu hiện chính của chủ nghĩa môi trường không có cơ sở của các chiến dịch giảm cầu với các sản phẩm từ động vật hoang dã tại Việt Nam, đó là:
Thách thức niềm tin vào y học cổ truyền
TS. Vũ Ngọc Anh cho rằng các chiến dịch này thường không xét đến niềm tin vào y học cổ truyền, vốn có vai trò sâu sắc trong đời sống và văn hóa của người Việt. Một trong những minh họa rõ ràng nhất là cách nhiều chiến dịch phủ nhận hoàn toàn hiệu quả y học của sừng tê giác – một vị thuốc cổ truyền trong y học phương Đông – bằng cách ví nó như móng tay người. Ví dụ, chiến dịch “Những kẻ cắn móng tay” (Nail Biters) do WildAid và CHANGE thực hiện, mời 26 người nổi tiếng chụp ảnh đang... cắn móng tay, kèm thông điệp “sừng tê giác cũng chỉ là keratin – giống như móng tay người – hoàn toàn vô dụng”. Trong một chiến dịch khác, khách mời được mời góp móng tay để đổ vào sừng nhựa đặt trên mô hình tê giác, như một cách “minh họa” cho sự lãng phí của việc tiêu dùng sừng thật.
Những cách tiếp cận và thông điệp này đã vấp phải những phản ứng dữ dội từ công chúng và đặc biệt là giới y học cổ truyền. “Tôi đã dạy nhiều học trò trong suốt cuộc đời mình, tôi có tất cả các cuốn sách kinh điển trong tay, tôi nằm lòng tất cả các nội dung về đặc tính chữa bệnh của tê giác trong sách. Tôi không thể nói những gì trái ngược với kiến thức, thực hành và niềm tin của tôi. Học trò, nhân viên và đồng nghiệp của tôi sẽ nghĩ gì về tôi?”, một lương y được phỏng vấn trong nghiên cứu chia sẻ về việc ông từ chối lời mời đến Nam Phi để “tận mắt thấy tê giác” và tham gia chiến dịch phản đối sử dụng sừng từ một tổ chức quốc tế. Một nhà hoạt động môi trường khác bình luận: “Khi người dân địa phương đã có niềm tin sâu sắc này, các chiến dịch truyền thông nên nhạy cảm với nó và học cách giải quyết một cách tinh tế và công bằng. Nếu bạn tiếp tục bỏ qua hoặc coi thường văn hóa hoặc niềm tin địa phương, … được rồi, bạn có thể tiếp tục chiến dịch, nhưng đó là văn hóa của tôi nên tôi sẽ tiếp tục thực hành nó.”
Sử dụng người nổi tiếng làm đại sứ chiến dịch
Hình thức truyền thông của các chiến dịch cũng bị chỉ trích là xa rời thực tế. Hàng chục người nổi tiếng được huy động “cắn móng tay vì tê giác”, hay các diễn viên Hollywood bay đến Việt Nam kêu gọi người dân từ bỏ việc tiêu dùng sừng tê. Trong phim tài liệu “Save the Rhino Vietnam”, hai diễn viên da trắng đến Hà Nội, gặp gỡ sinh viên, báo chí và đại sứ quán Nam Phi để truyền đi thông điệp rằng “90% sừng tê giác từ Nam Phi tới Việt Nam”. Những gương mặt này được cho là xa lạ với đời sống hằng ngày của đa số công chúng.
Cách tiếp cận này còn bị phê phán như một hình thức “chủ nghĩa khai sáng mới”, trong đó người phương Tây lại một lần nữa đóng vai “thầy giáo đạo đức” hướng dẫn người địa phương nên sống thế nào cho đúng. Một số nghệ sĩ sau đó còn bị phát hiện sử dụng sản phẩm từ động vật hoang dã, khiến chiến dịch phản tác dụng.
Thiếu nhạy cảm văn hóa
Nghiên cứu còn chỉ ra các chiến dịch thường dùng các thông điệp mang tính công kích, thiếu tôn trọng, thậm chí miệt thị những người sử dụng sản phẩm từ động vật hoang dã, ví dụ như thông điệp “Tiêu thụ là giết hại” từ một chiến dịch của Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên ENV hay phát biểu “thật ngốc nghếch cho ai bỏ tiền ra mua [sừng tê giác] vì nó chẳng đem lại tác dụng gì và chỉ phá hoại thiên nhiên” từ một đại sứ thiện chí của chiến dịch “Chấm dứt sử dụng sừng tê giác” do WildAid và CHANGE thực hiện. Trong khi đó, như một chuyên gia nước ngoài về bảo tồn nói, “việc giữ thể diện là điều rất quan trọng ở đây. Nếu chúng ta cứ nói với người Việt Nam rằng họ xấu và ngốc nghếch, thì điều đó không hiệu quả”.
Bên cạnh đó, nhiều chiến dịch được thiết kế dựa trên các giá trị và chuẩn mực phương Tây mà không có sự tham vấn đầy đủ với các chuyên gia văn hóa, xã hội học hay cộng đồng địa phương. TS. Vũ Ngọc Anh cảnh báo những chiến dịch như vậy rất dễ gợi lại và làm trầm trọng thêm những định kiến và diễn ngôn thực dân rằng người châu Á lạc hậu và “man rợ” trong cách đối xử với thiên nhiên.
Thiếu kết nối với các phong trào môi trường cơ sở
Một điểm yếu nữa là sự thiếu gắn kết giữa các chiến dịch bảo tồn với các phong trào môi trường cơ sở đang nổi lên mạnh mẽ tại Việt Nam. Trong khi các nhóm cộng đồng đấu tranh bảo vệ cây xanh ở Hà Nội, chống ô nhiễm biển miền Trung, hay vận động chống rác thải nhựa ngày càng thu hút sự tham gia rộng rãi, thì các chiến dịch bảo vệ tê giác, voi hay hổ lại “lặng lẽ và cô độc” – theo lời một cán bộ chiến dịch.
Lý do là vì các loài này đã không còn xuất hiện trong đời sống người Việt khi hầu hết đã tuyệt chủng hoặc gần như tuyệt chủng tại Việt Nam. Đa số công chúng không có sự kết nối về mặt tình cảm với những loài động vật hoang dã ở châu Phi xa xôi, nên những chiến dịch này không đưa lại bất kỳ lợi ích trực tiếp nào cho những người tiêu thụ sản phẩm từ động vật hoang dã, nghiên cứu viết.
Từ những phát hiện trên, nghiên cứu nêu các khuyến nghị đáng chú ý. Thứ nhất, cần tích hợp kiến thức bản địa và sự nhạy cảm văn hóa vào thiết kế chiến dịch. Thay vì bác bỏ hoàn toàn y học cổ truyền, có thể tìm cách thúc đẩy các phương pháp thay thế đã có sẵn trong y học hiện đại, trên tinh thần tôn trọng. Thứ hai, nên hợp tác với các nhóm môi trường cơ sở, xây dựng chiến dịch từ dưới lên thay vì áp đặt từ trên xuống. Thứ ba, chuyển từ thông điệp gây cảm giác tội lỗi sang những hình ảnh tích cực, truyền cảm hứng. Người Việt có truyền thống tôn trọng thiên nhiên, coi cây cối, sông núi cũng có linh hồn – những giá trị này có thể là điểm tựa cho hành vi bảo vệ động vật. Cuối cùng, cần mở rộng trọng tâm chiến dịch sang các loài bản địa như cu li, sao la, rùa, chứ không chỉ quanh quẩn với các “biểu tượng toàn cầu” như tê giác hay voi.
Nguồn:
Bài đăng KH&PT số 1343 (số 19/2025)