Nghiên cứu mới của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO cho thấy bảo hiểm y tế tại Việt Nam vẫn chưa bao trùm hết cộng đồng người khuyết tật cũng như các chi phí chăm sóc sức khỏe của họ.
Theo Điều tra quốc gia về người khuyết tật (VDS) năm 2016, Việt Nam có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật, chiếm 7,09% dân số cả nước. Người khuyết tật thường có nhu cầu chăm sóc sức khỏe cao hơn nên rất dễ gặp khó khăn về tài chính hoặc không được tiếp cận các dịch vụ y tế phù hợp nếu hệ thống y tế không có các cơ chế dành riêng cho họ. Nghiên cứu mới đây của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhằm đánh giá khả năng chăm sóc sức khỏe người khuyết tật của hệ thống y tế ba quốc gia Campuchia, Lào và Việt Nam cho thấy những chính sách về trợ cấp và bảo hiểm y tế (BHYT) cho người khuyết tật của Việt Nam dù nhiều nhưng chưa bao trùm hết cộng đồng này, và không ít người khuyết tật vẫn phải tự chi trả nhiều chi phí y tế.
Chưa bao trùm hết các đối tượng
Hiện nay, người khuyết tật đang được hưởng nhiều quyền lợi về BHYT hơn những người không khuyết tật. Trong khi người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng sẽ được ngân sách nhà nước đóng BHYT, những người khuyết tật không thuộc hai mức độ đó phải tự mua thẻ BHYT. Vì vậy, dù có đến 90% người khuyết tật tại Việt Nam đang được hưởng BHYT, chỉ một số ít đang được hưởng đúng chế độ dành riêng cho người khuyết tật, cụ thể: 31% được bảo hiểm với tư cách là người hưởng các trợ cấp xã hội khác, 14% do sống trong hộ nghèo, và gần 25% tham gia BHYT tự nguyện.
Những người khuyết tật được phỏng vấn trong nghiên cứu cho rằng quy trình đánh giá tình trạng khuyết tật không phải lúc nào cũng chính xác. Nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra thực trạng không ít nhân viên y tế và viên chức thường chỉ hướng dẫn những người khuyết tật đến đánh giá khi họ hoàn toàn tin tưởng những người này đáp ứng các tiêu chí, dẫn đến dễ bỏ sót những người mà tình trạng khuyết tật có thể không quá rõ ràng hay quan sát được. Một số hạn chế được người tham gia nghiên cứu phản ánh là một số khuyết tật trí tuệ nhất định vẫn chưa được tính đến trong đánh giá khuyết tật, quy trình xin đánh giá tình trạng khuyết tật còn phức tạp và thời gian xét duyệt kéo dài, có thể lên tới một năm.
Chưa bao trùm hết các chi phí
Mặc dù kỳ vọng toàn bộ chi phí chăm sóc y tế của người dân sẽ được Nhà nước chi trả, kết quả nghiên cứu cho thấy chi tiêu trực tiếp (out of pocket payment - OOP) vẫn là nguồn chi tiêu y tế chính ở Việt Nam. Trong khi tỉ lệ chi tiêu công cho y tế của Việt Nam cao hơn nhiều so với hai quốc gia còn lại (43% so với 27% của Campuchia và 26% của Lào), song tỉ lệ chi tiêu OOP của nước ta vẫn lên tới 40%. Mức OOP cao như vậy có thể dẫn đến gánh nặng tài chính đáng kể cho các hộ gia đình, và có khoảng 9% dân số Việt Nam phải đối mặt với chi phí y tế vượt quá 10% thu nhập năm.
Đối với người khuyết tật, các chi tiêu OOP chủ yếu rơi vào các dịch vụ phục hồi chức năng và thiết bị hỗ trợ hiện vẫn chưa được BHYT hỗ trợ như các dịch vụ về nhãn khoa, máy trợ thính hay thiết bị hỗ trợ di chuyển. Việt Nam có khuôn khổ pháp lý tương đối chi tiết liên quan đến phục hồi chức năng và thiết bị hỗ trợ, với nhiều sáng kiến cụ thể đang được triển khai để mở rộng dịch vụ. Điều 4, Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12 quy định việc cung cấp dịch vụ phục hồi chức năng là quyền của người khuyết tật, và các chính sách của nhà nước phải tạo điều kiện để người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ phục hồi chức năng. Chính phủ Việt Nam cũng đã triển khai Chương trình phát triển hệ thống phục hồi chức năng giai đoạn 2023 – 2030.
Phản ánh khuôn khổ pháp lý, các dịch vụ phục hồi chức năng nhìn chung dễ tiếp cận hơn thông qua hệ thống y tế công tại Việt Nam so với Campuchia và Lào. Người tham gia chia sẻ các dịch vụ phục hồi chức năng được cung cấp qua các trạm y tế xã và bệnh viện. Một số nơi còn có đội ngũ nhân viên chuyên trách như điều dưỡng phục hồi chức năng tại trạm y tế xã, khoa phục hồi chức năng chuyên trách tại bệnh viện tỉnh hay các bệnh viện chuyên trách cho một số dạng khuyết tật.
Phạm vi bao phủ của các dịch vụ phục hồi chức năng và thiết bị hỗ trợ theo chương trình BHYT đã tăng dần trong thập kỷ qua nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu. Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 (và Luật sửa đổi năm 2014) đã bao gồm “phục hồi chức năng” nhưng lại loại trừ “sử dụng vật tư y tế thay thế bao gồm chân tay giả, mắt giả, răng giả, kính mắt, máy trợ thính, phương tiện trợ giúp vận động trong khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng”. Một nghiên cứu trước đây chỉ ra BHYT chỉ chi trả cho 33 trong số 248 danh mục kỹ thuật phục hồi chức năng được Bộ Y tế phê duyệt và không có thiết bị hỗ trợ nào được chi trả. Thông tư số 18/2016/TT-BYT quy định danh mục kỹ thuật, danh mục vật tư y tế dùng trong phục hồi chức năng và việc chi trả chi phí phục hồi chức năng ban ngày thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT đã mở rộng gói thiết bị được BHYT chi trả, chủ yếu liên quan đến thiết bị chỉnh hình và phục hồi chức năng, nhưng một số thiết bị như chỉnh hình, xe lăn và chân tay giả vẫn bị loại trừ.
Việc cung cấp dịch vụ phục hồi chức năng cũng không đồng đều và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả nguồn tài trợ. Dữ liệu từ VDS 2016 cho thấy chỉ có 2,3% người khuyết tật đã nhận được các dịch vụ phục hồi chức năng trong năm trước đó. Ngoài ra, chỉ có 57% trạm y tế xã cung cấp dịch vụ phục hồi chức năng, với tỷ lệ thấp hơn ở khu vực nông thôn so với khu vực thành thị.
Các dịch vụ phục hồi chức năng chủ yếu tập trung vào các khuyết tật về thể chất và hạn chế hơn nhiều đối với các dịch vụ như liệu pháp ngôn ngữ và tâm lý. Trong khi đó, một số dịch vụ phục hồi chức năng và thiết bị hỗ trợ chỉ được cung cấp thông qua các bệnh viện chuyên khoa và việc xin giới thiệu đến các bệnh viện này có thể tốn thời gian. Người tham gia chia sẻ họ thường mua thiết bị hỗ trợ từ tư nhân hoặc nhận được chúng từ các dự án do tổ chức phi chính phủ hoặc chính phủ tài trợ.
Nguồn: