Các công nghệ mới như robot, trí tuệ nhân tạo (AI) và các nền tảng số đang có những tác động sâu rộng đến thị trường lao động và thay đổi bản chất công việc của chúng ta. Liệu Việt Nam có thể biến điều này từ "mối nguy thành cơ hội"?

Lợi thế so sánh có hiệu quả bây giờ phải là ứng dụng tri thức, công nghệ.
Lợi thế so sánh có hiệu quả bây giờ phải là ứng dụng tri thức, công nghệ.

Báo cáo “Tương lai việc làm: Robot, Trí tuệ nhân tạo và Nền tảng kỹ thuật số ở Đông Á và Thái Bình Dương” do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố mới đây đã phân tích tác động của ba công nghệ này lên các quốc gia trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (EAP), trong đó có Việt Nam.

Các phương tiện thông tin đại chúng ngày nay không ngừng cảnh báo rằng máy móc sẽ “cướp việc” của con người. Nhưng tại sự kiện công bố Báo cáo vào ngày 18/6, ông Daisuke Fukuzawa, đồng tác giả và Chuyên gia Kinh tế của WB khu vực EAP, nhấn mạnh đây mới chỉ là một chiều cạnh của vấn đề. Ở chiều cạnh khác, các công nghệ mới cũng tạo ra nhiều việc làm mới, không chỉ vì chúng cần người vận hành và kiểm soát mà còn mở rộng quy mô sản xuất không ngừng, thu hút càng nhiều người tham gia lực lượng lao động.

Nhiều tác động tích cực


Bà Manuela Ferro, Phó Chủ tịch WB khu vực EAP, nhận xét với một nơi được coi là “phân xưởng” của thế giới như EAP, tự động hóa thực chất tạo ra nhiều việc làm hơn là lấy đi công việc của người lao động. Việt Nam đang ứng dụng robot trong ba ngành chính là Máy tính và điện tử, Thiết bị điện, Nhựa và cao su. Báo cáo cho thấy việc sử dụng robot đã giúp tăng 10% số lượng việc làm và 5% thu nhập cho người lao động tại Việt Nam. Bà Lê Thái Hà, Giám đốc điều hành Quỹ VinFuture và Quỹ Vì tương lai xanh (Vingroup), lấy ví dụ VinFast hiện đã triển khai hơn 1.200 robot công nghiệp để thay thế những công việc hàn và sơn thủ công, nhưng chúng cũng tạo ra nhiều công việc hoàn toàn mới như hiệu chuẩn, lập trình và bảo trì robot, và trả lương cao gấp 2 - 3 lần mức trung bình tại địa phương.

Hơn nữa, sự xuất hiện của các nền tảng số còn đem lại tác động tích cực cho những người lao động tự do, đặc biệt là nhóm lao động phi chính thức từng bị “lề hóa”. Báo cáo đã phân tích một trường hợp điển hình tại Việt Nam là sự xuất hiện của các nền tảng gọi xe công nghệ giúp tăng 20% thu nhập cho các tài xế xe máy - những người trước đó “không thể tiếp cận các cách thức chính thức để điều chỉnh dịch vụ của mình cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng”, theo ông Omar Arias, Phó Kinh tế trưởng WB khu vực EAP. Ngay cả ba năm sau khi xuất hiện các nền tảng, tưởng chừng lượng tài xế đã bão hòa, mỗi tài xế nhận ít cuốc xe đi nhưng thu nhập của những tài xế xe ôm công nghệ vẫn tiếp tục giữ ổn định.

Nhưng cũng không ít nỗi lo


Ở thời điểm hiện nay, khi nông nghiệp, chế tạo - sản xuất vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế ở các nước EAP, không chỉ tự động hóa mà AI đều khó có khả năng tạo ra tác động sa thải lao động quy mô lớn và hàng loạt - vốn đang xảy ra chủ yếu ở các công việc lao động trí óc. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc các nước EAP sẽ có ít cơ hội khai thác và hưởng lợi từ AI hơn so với các nước phát triển. Báo cáo ước tính chỉ có khoảng 10% việc làm ở khu vực EAP có thể tận dụng sức mạnh của AI để hỗ trợ con người. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 30% ở các nước phát triển.

Tuy vậy, ít công việc bị thay thế vẫn đòi hỏi Việt Nam phải có giải pháp cho một tỉ lệ nhất định các công nhân bị sa thải vì công cuộc tự động hóa và AI. Ước tính, con số này là 1,4 triệu lao động ở tổng cộng năm quốc gia Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam). Phân tích dữ liệu sâu hơn cho thấy các lao động này thường sẽ chuyển sang khu vực phi chính thức, làm nảy sinh thêm nhiều vấn đề về an sinh xã hội.

Những gì đáng lo ngại hơn còn nằm ở tương lai, khi ngành dịch vụ sẽ dần chiếm tỉ trọng lớn hơn trong cơ cấu nền kinh tế, và các lao động trí óc làm trong lĩnh vực này lại chưa được chuẩn bị để đón nhận những tiến bộ vượt bậc của AI. Thật vậy, Báo cáo cho thấy người lao động tại khu vực EAP nói chung và tại Việt Nam nói riêng đang thiếu nhiều kỹ năng số và công nghệ cần thiết để có thể tận dụng công nghệ này. Mặc dù có một nền giáo dục phổ thông rất mạnh, giáo dục đại học của Việt Nam lại “chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế số và kinh tế xanh”, bà Lê Thái Hà nhận định. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, chỉ có khoảng 30% sinh viên đại học theo học các ngành STEM, và hầu hết chương trình học STEM vẫn còn khá lý thuyết và chưa phù hợp với các lĩnh vực thay đổi nhanh chóng như AI hay khoa học dữ liệu. “Chưa tới 20% sinh viên nhận được bất kỳ hình thức đào tạo nào về công nghệ như robot hoặc internet vạn vật (IoT). Khoảng cách trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn vào lực lượng lao động. Một cuộc khảo sát gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy chỉ có 27% công nhân sản xuất nhận được những tập huấn bài bản liên quan đến công nghệ công nghiệp 4.0”, bà dẫn chứng.

Biến công nghệ thành cơ hội

Báo cáo đã kêu gọi các nước EAP thực hiện cải cách để “biến sự thay đổi công nghệ thành cơ hội thay vì yếu tố gây bất lợi”, trong đó nhóm chính sách quan trọng nhất là trang bị cho người dân những kỹ năng vượt trội về kỹ thuật, số hóa và cảm xúc xã hội để tương thích với công nghệ mới. “Tác động ròng” của công nghệ lên thị trường việc làm Việt Nam sẽ là tích cực “chỉ khi người lao động có thể thích ứng thông qua nâng cao và đào tạo lại kỹ năng”, bà Lê Thái Hà đánh giá và nhấn mạnh tầm quan trọng của học tập suốt đời. Bà đề xuất mở rộng các chương trình đào tạo theo mô-đun ngắn từ 3 - 6 tháng trong các lĩnh vực như năng lượng xanh, tự động hóa, AI…, có thể thông qua các mô hình chia sẻ chi phí giữa chính phủ, công ty và người học.

Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường các hệ thống công nhận các hình thức học phi truyền thống để những người lao động có kinh nghiệm nhưng chưa được cấp chứng chỉ có thể được công nhận một cách chính thức. Việc trau dồi kiến thức và kỹ năng đặc biệt quan trọng với nhóm lao động phi chính thức và nhóm bị mất việc do tự động hóa để tiếp cận những cơ hội việc làm mới. Báo cáo cũng khuyến khích các nước EAP tạo điều kiện để những nông dân làm những công việc nông nghiệp năng suất thấp có thể di cư để tìm kiếm việc làm tốt hơn cũng như mở rộng bảo hiểm xã hội cho nhóm lao động phi chính thức.

Một lớp học của chương trình Samsung Innovation Campus tại Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia (NIC). Ảnh: Samsung Newsroom.
Một lớp học của chương trình Samsung Innovation Campus tại Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia (NIC). Ảnh: Samsung Newsroom.

Trong thời gian gần đây, nhiều nỗ lực nhằm nâng cao kỹ năng số và công nghệ cho người dân đã được triển khai, có thể kể đến chương trình Samsung Innovation Campus. Trong năm 2024 - 2025, hơn 6.000 thanh niên và giáo viên dự kiến ​​sẽ được đào tạo về AI, IoT, dữ liệu lớn và lập trình. Chúng ta cũng đang chứng kiến những cái bắt tay giữa khu vực doanh nghiệp và học thuật, ví dụ như hợp tác giữa các nhà máy của Samsung tại Bắc Ninh và Thái Nguyên với các trường nghề tại địa phương để đào tạo học viên về robot và cơ khí. “Đây là những dấu hiệu tuyệt vời, nhưng vẫn là những nỗ lực đơn lẻ”, bà Lê Thái Hà nhận xét. “Việt Nam cần có cách tiếp cận nhất quán và trên toàn quốc để tích hợp các quan hệ đối tác trong ngành và thực tập vào các chương trình đại học”. Bà kỳ vọng Luật Công nghiệp Công nghệ số được thông qua mới đây sẽ tiếp tục thúc đẩy đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp công nghệ số và phát triển cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyên ngành công nghệ số.

Bà Stephanie Sy, sáng lập và Giám đốc điều hành của Thinking Machines - Công ty Tư vấn Công nghệ dữ liệu tại Philippines, bổ sung thêm ngoài các kĩ năng số, còn cần trau dồi tư duy sáng tạo, các kĩ năng xã hội và cảm xúc cho người lao động trong thời đại công nghệ. Bà lấy ví dụ về một phần mềm quản lý quan hệ khách hàng trong kinh doanh mà công ty của mình đã từng triển khai, trong đó AI hoàn toàn có thể tạo ra các đoạn tin nhắn trao đổi với khách hàng với mức độ phản hồi tương tự, thậm chí cao hơn con người. Tuy nhiên, thử nghiệm trên một nhóm nhỏ cho thấy người dùng không hài lòng khi biết mình đang trò chuyện với AI. “Chỉ riêng nhận thức rằng mình đang nói chuyện với một con người đã mang lại cho họ nhiều sự tự tin và tin tưởng hơn vào tổ chức, cho thấy bản chất lòng tin của con người và cách bạn có thể xây dựng một công việc xung quanh các mối quan hệ của con người và lòng tin, được hỗ trợ bởi AI”, bà Stephanie Sy nói.

Bài đăng KH&PT số 1350 (số 26/2025)