Việc cho phép khối giáo dục tư thục tiếp cận trụ sở dôi dư sau sắp xếp các đơn vị hành chính sẽ tạo ra cú hích quan trọng, tháo gỡ nút thắt về cơ sở vật chất.
Tại buổi tiếp xúc với cử tri của các quận Hai Bà Trưng, Ba Đình và Đống Đa để ghi nhận và giải đáp các ý kiến, kiến nghị của cử tri trước kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV vào sáng 17/4, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết các trụ sở dôi dư sau sắp xếp các đơn vị hành chính được định hướng bố trí sử dụng cho ba lĩnh vực còn khó khăn về cơ sở hạ tầng, đó là trường học; cơ sở khám, chữa bệnh, trạm y tế phường; và nơi hoạt động văn hóa, thể dục thể thao cho nhân dân. “Cái này là có định hướng rồi, tôi nói là ưu tiên ba lĩnh vực, một là trường học cải tạo lại, đi sửa chữa lại, mở trường, mở lớp. Cái thứ hai là cơ sở khám, chữa bệnh y tế, trạm y tế của phường, người dân phải được hướng dẫn khám sức khỏe, chăm sóc sức khỏe. Thứ ba nữa là những nơi hoạt động công cộng, văn hóa, thể dục thể thao cho nhân dân,” Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ [1].
Trong bài viết dưới đây, TS Quản lý giáo dục Hoàng Anh Đức, nghiên cứu viên tại ĐH RMIT Việt Nam, phân tích những tác động tích cực mà chủ trương mới có thể đem lại, nếu khối giáo dục tư thục được tạo điều kiện tiếp cận các trụ sở dôi dư.
“Cú hích” quan trọng
Tôi đánh giá chủ trương sử dụng trụ sở dôi dư sau sáp nhập các đơn vị hành chính làm trường học là một định hướng đúng đắn và có tầm nhìn, đặc biệt là nếu khối giáo dục tư thục được tạo điều kiện tiếp cận nguồn lực này. Chủ trương nói trên không chỉ thể hiện tư duy quản trị hiệu quả tài sản công mà còn đáp ứng nhu cầu cấp thiết về cơ sở giáo dục trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng tại các thành phố lớn.

Giáo dục tư thục, với vai trò là bộ phận không tách rời của hệ thống giáo dục quốc dân, đã và đang đóng góp đáng kể vào việc bổ sung nguồn lực, đa dạng hóa môi trường học tập và giảm tải áp lực cho hệ thống công lập. Chỉ riêng Hà Nội và TPHCM đã có cả nghìn trường tư thục với vài trăm nghìn học sinh từ mẫu giáo đến lớp 12 [2]. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chủ trương và chính sách nhằm khuyến khích phát triển giáo dục tư thục, từ Nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (“Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập”), Luật Giáo dục 2019 (“khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao”) [3] đến Luật Đất đai (sửa đổi, 2024) (“Các dự án xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo không phân biệt nguồn vốn đầu tư, do “nhà nước thành lập” hoặc “cho phép hoạt động”; thuộc mọi cấp học, bậc học, từ mầm non, giáo dục phổ thông, đến giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp đều được đối xử công bằng về quyền tiếp cận đất đai”) [4]. Mặc dù vậy, thách thức lớn nhất mà khối tư thục phải đối mặt bấy lâu nay chính là tiếp cận quỹ đất và cơ sở vật chất tại vị trí thuận lợi, dẫn đến chi phí đầu tư ban đầu cao và gián tiếp tác động đến học phí.
Nếu được tạo điều kiện tiếp cận trụ sở dôi dư, các trường tư thục có thể giảm đáng kể gánh nặng tài chính ban đầu, từ đó tập trung nguồn lực vào nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp giáo dục và phát triển đội ngũ giáo viên. Sự đa dạng hóa về mô hình giáo dục cũng sẽ được thúc đẩy, khi các nhà đầu tư có điều kiện phát triển các trường chuyên biệt như trường STEM, trường nghệ thuật, trường dành cho trẻ có nhu cầu đặc biệt, hay các mô hình giáo dục tiên tiến. Điều này không chỉ mở ra nhiều lựa chọn chất lượng cho người học mà còn tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy cả hệ thống giáo dục không ngừng đổi mới.
Nói cách khác, việc cho phép khối giáo dục tư thục tiếp cận trụ sở dôi dư sẽ tạo ra cú hích quan trọng, tháo gỡ nút thắt về cơ sở vật chất và mở ra cơ hội phát triển bền vững. Đặc biệt, đây còn là cơ hội hiếm có để chúng ta sửa chữa các hạn chế về quy hoạch trong quá khứ, khi các quỹ đất trước kia thường được quy hoạch theo các khu đô thị với tầm nhìn trung hạn. Thực tế, sự phát triển nóng của đô thị đã phá vỡ nhiều quy hoạch ban đầu, khiến hạ tầng đất dành cho giáo dục bị giới hạn nghiêm trọng.
Đồng thời, vị trí thuận lợi của các trụ sở hành chính (thường nằm ở trung tâm khu dân cư, giao thông thuận tiện) sẽ giúp các trường tư thục tiếp cận được nhiều đối tượng học sinh hơn.
Bảo đảm tính bền vững của chính sách
Để chủ trương này trở thành hiện thực, trước hết, cần xây dựng khung pháp lý rõ ràng và minh bạch với các quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chí và quy trình tiếp cận trụ sở dôi dư dành cho giáo dục tư thục. Các văn bản hướng dẫn cần được ban hành đồng bộ từ trung ương đến địa phương, tránh tình trạng mỗi nơi một kiểu, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng từ trụ sở hành chính sang cơ sở giáo dục cũng cần được ưu tiên thực hiện, với quy trình “một cửa” rõ ràng.
Đặc biệt, cần có cơ chế ưu đãi về thời hạn thuê dài hạn (50 năm) với mức giá hợp lý, và có thể thanh toán tiền thuê từng năm, tạo điều kiện cho nhà đầu tư hoạch định chiến lược phát triển dài hạn.
Bên cạnh đó, tôi đề xuất xây dựng bộ tiêu chí minh bạch để đánh giá, lựa chọn nhà đầu tư phù hợp, trong đó ưu tiên các dự án có cam kết về chất lượng giáo dục và đóng góp xã hội. Cụ thể, có thể xem xét mức độ uy tín, kinh nghiệm và năng lực tài chính của nhà đầu tư; chất lượng đề án phát triển trường học; cam kết về tỷ lệ học sinh được hỗ trợ học phí; và đóng góp cho sự phát triển giáo dục địa phương. Các dự án giáo dục đặc thù, đáp ứng nhu cầu xã hội như trường năng khiếu, trường dành cho trẻ có nhu cầu đặc biệt, nên được ưu tiên xem xét.
Một vấn đề quan trọng khác cũng cần được giải quyết là các quy định kỹ thuật về diện tích hay chiều cao tối thiểu của các loại hình lớp học. Nhiều trụ sở hành chính hiện tại có thể không đáp ứng các tiêu chuẩn này, vì vậy cần có cơ chế cho phép UBND cấp tỉnh được xem xét phê duyệt linh hoạt các trường hợp cụ thể, với điều kiện vẫn bảo đảm an toàn và chất lượng học tập. Nếu không có sự linh hoạt này, nhiều trụ sở dôi dư sẽ khó lòng được chuyển đổi thành cơ sở giáo dục.
Ngoài ra, nhà nước còn cần có các chính sách hỗ trợ kỹ thuật trong việc cải tạo công trình để phù hợp với tiêu chuẩn trường học, hỗ trợ thẩm định, và có thể xem xét hình thức đối tác công-tư (PPP) cho một số công trình lớn cần đầu tư nhiều để cải tạo. Những chính sách hỗ trợ này sẽ góp phần giảm gánh nặng cho nhà đầu tư trong giai đoạn đầu, đồng thời bảo đảm các cơ sở giáo dục được phát triển đáp ứng đúng nhu cầu và tiêu chuẩn.
Nhìn chung, chủ trương mới sẽ liên quan đến lợi ích của nhiều bên tham gia - nhà đầu tư được bảo đảm quyền lợi hợp pháp, người học được tiếp cận giáo dục chất lượng với chi phí hợp lý, và nhà nước tối ưu hóa được việc sử dụng tài sản công - bởi vậy cần bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các bên.
Theo đó, trước hết, cần bảo đảm tính bền vững của chính sách, tránh tình trạng thay đổi chính sách giữa chừng gây bất ổn cho nhà đầu tư và người học. Cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng cần được thiết lập ngay từ đầu, với các tiêu chí rõ ràng về chất lượng giáo dục, đóng góp xã hội, và hiệu quả sử dụng tài sản. Ví dụ, trong trường hợp nhà đầu tư thắng thầu nhưng không triển khai dự án trong khoảng hai năm, cần thu hồi và tiến hành đấu thầu công khai thay vì cho phép nhà đầu tư chuyển nhượng dự án cho một bên thứ ba.
Vấn đề chất lượng giáo dục cũng cần được đặt lên hàng đầu, không chỉ để bảo vệ quyền lợi người học mà còn bảo đảm tính hiệu quả của chính sách. Việc xây dựng và áp dụng các cơ chế kiểm định chất lượng nghiêm túc, định kỳ là cần thiết, cùng với yêu cầu các trường tư thục cam kết về mức học phí hợp lý tương ứng với chất lượng đào tạo. Đặc biệt, cần quy định rõ về tỷ lệ học sinh được miễn giảm học phí, được cấp học bổng để bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục chất lượng.
Đồng thời, các trường tư thục cần được khuyến khích phát triển đa dạng các mô hình giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội, từ mầm non đến phổ thông, từ giáo dục chuyên biệt đến giáo dục hòa nhập, tạo nên một hệ thống giáo dục đa dạng, bổ trợ hiệu quả cho hệ thống công lập.
Việc tạo điều kiện cho giáo dục tư thục tiếp cận trụ sở dôi dư rõ ràng là một bước quan trọng, nhưng cần được đặt trong một chiến lược toàn diện về phát triển giáo dục của quốc gia, trong đó các trường công lập và tư thục không nên được nhìn nhận như hai hệ thống riêng biệt và cạnh tranh, mà là hai bộ phận bổ trợ cho nhau trong cùng một hệ thống giáo dục quốc dân. Với tư duy như vậy, cơ chế chia sẻ nguồn lực giảng dạy, cơ sở vật chất, và kinh nghiệm quản lý giữa hai khu vực sẽ mang lại lợi ích cho cả hệ thống.
Nguồn tham khảo:
Bài đăng KH&PT số 1343 (số 19/2025)