Tiếp nối, thay thế cho chương trình “Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số”, hay còn được biết đến với tên gọi Chương trình nông thôn miền núi, dự thảo “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển các sản phẩm chủ lực khu vực nông thôn, miền núi” mà Bộ KH&CN đang xây dựng mang tham vọng sẽ giúp các địa phương tăng năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ; mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; cũng như đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trên cả nước
Những mục tiêu mớiCho đến nay, chương trình nông thôn miền núi đã triển khai được 26 năm và đạt được nhiều thành quả. Theo Vụ trưởng Vụ Ứng dụng công nghệ và Tiến bộ kỹ thuật Chu Thức Đạt, giai đoạn gần nhất (2016-2025), chương trình đã xây dựng được gần 1.700 mô hình ứng dụng công nghệ và chuyển giao 2.560 công nghệ, quy trình kỹ thuật mới cho các tỉnh, địa bàn trên cả nước, đạt khoảng 77-85% mục tiêu đề ra.
Khi chương trình cũ sẽ khép lại vào năm tới, chương trình mới với tên gọi “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển sản phẩm chủ lực khu vực nông thôn, miền núi” sẽ ra đời và kế thừa các bài học của chương trình cũ và phát triển theo hướng tập trung hơn, tức nâng đỡ cho một vài sản phẩm chủ lực của địa phương. Mục tiêu của hướng đi này là nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm để gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, cả trong nước và xuất khẩu.
“Sẽ có khoảng 80 sản phẩm chủ lực của địa phương được chọn từ danh mục đề xuất của các tỉnh. Tôi nghĩ chúng sẽ rơi nhiều vào các sản phẩm OCOP nông nghiệp ba sao, bốn sao. Nhưng cũng có cơ hội là các tỉnh sẽ chọn những sản phẩm mới, gắn với định hướng công nghiệp hoặc dịch vụ của địa phương”, ông Chu Thức Đạt chia sẻ trong một sự kiện ngày 2/10.
Hiện nay sản phẩm chủ lực của nước ta vẫn phụ thuộc nhiều vào mùa vụ và chưa đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu cần tiếp tục xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn để thúc đẩy ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN, phát triển các sản phẩm chủ lực một cách bền vững, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi.
|
Và tại hội thảo trao đổi về dự thảo chương trình do Bộ KH&CN mới tổ chức ngày 3/12, những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Chương trình mới đã được tiết lộ cụ thể hơn. Theo đó, trong giai đoạn 2025-2030, chương trình kỳ vọng chuyển giao được khoảng 200 công nghệ, tiến bộ kỹ thuật phục vụ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương; xây dựng được khoảng 250 mô hình chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực hiệu quả,... “Các sản phẩm chủ lực được hỗ trợ được nâng cao về năng suất, chất lượng, có sức cạnh tranh, mở rộng được thị trường tiêu thụ. Trong đó, mỗi địa phương có 1-2 sản phẩm chủ lực trở lên được xuất khẩu với số lượng lớn”, dự thảo đề ra mục tiêu.
Để đạt được những mục tiêu này, chương trình đưa ra năm nhiệm vụ chính, trải từ nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách; ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phát triển nguyên liệu/vùng nguyên liệu cho sản phẩm chủ lực; sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ; cho đến hỗ trợ chuyển giao, mua công nghệ trong nước và từ nước ngoài để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm chủ lực của địa phương, cũng như một số nhiệm vụ khác để đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở dữ liệu.
Theo phác thảo của Chương trình sản phẩm chủ lực này, việc hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ sẽ được liên kết theo chuỗi giá trị. Ở đây, không chỉ đơn thuần là mang các nhà khoa học và công nghệ tới để giới thiệu cho các doanh nghiệp với kỳ vọng rằng họ sẽ áp dụng chúng trong một công đoạn sản xuất của mình, mà còn là một quá trình dài đồng hành cùng địa phương trong việc thiết lập các mô hình kinh doanh. Các công nghệ được áp dụng và chuyển giao sẽ là những công nghệ tiên tiến, gắn với định hướng phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững. Hơn nữa, chương trình sẽ tìm cách triển khai một mô hình tài chính và quản lý mới, khiến cho việc hợp tác với doanh nghiệp trở nên nhanh gọn hơn. “Chúng tôi không muốn đi theo mô hình nhiệm vụ khoa học công nghệ như trước kia vì chúng tạo ra nhiều rào cản. Chúng tôi đang cố gắng thảo luận với các bộ, ngành liên quan để nới lỏng cơ chế tài chính, cho phép ngân sách hỗ trợ doanh nghiệp các khoản tiền lớn hơn mà không phải bồi hoàn”, ông Chu Thức Đạt cho biết.
Những hướng đi này được thiết kế dựa trên nhu cầu của các địa phương. Theo báo cáo tổng hợp ý kiến, các dự án hỗ trợ chuyển giao, ứng dụng công nghệ, tiến bộ kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, miền núi và dân tộc thiểu số hiện có đã phát huy hiệu quả, góp phần thay đổi phương thức sản xuất theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, công tác hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ cho các ngành, lĩnh vực, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, trong đó có các sản phẩm chủ lực lại còn nhiều hạn chế. Một trong những thách thức như vậy nằm ở việc hiện nay chưa có chính sách cụ thể, tập trung hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN vào phát triển sản phẩm chủ lực có tiềm năng và lợi thế, với định hướng nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Không chỉ vậy, các chủ thể sản xuất đa số có quy mô nhỏ hoặc siêu nhỏ, thiếu nguồn lực đầu tư, cơ sở hạ tầng và máy móc thiết bị phục vụ chế biến sâu. “Bên cạnh đó, việc xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm còn yếu.
Tăng cường tính khả thiMột chương trình mới với những mục tiêu mới luôn đem lại những hyvọng về tính hiệu quả so với những giải pháp cũ. Vậy làm thế nào để chương trình thực sự đi vào thực tiễn và giúp các địa phương nâng cao giá trị sản phẩm? “Giữa mong muốn và tính khả thi, cần phải cân nhắc các yếu tố đưa vào trong chương trình thay vì đưa vào quá nhiều yếu tố, nhất là khi xem xét với các điều kiện về nguồn lực, con người, đặc biệt là hành lang pháp lý”, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh lưu ý và dẫn ra một ví dụ về việc mua công nghệ từ nước ngoài - một giải pháp khá khó để thực hiện trong thực tế.
Bên cạnh đó, khi nói về sản phẩm chủ lực, “cần làm rõ: Thế nào là sản phẩm chủ lực của địa phương? Ai phê duyệt, ai quyết định, và ai chịu trách nhiệm đối với các sản phẩm chủ lực? Chủ tịch UBND có quyền quyết định hay cần thông qua HĐND? Thời gian áp dụng cho các sản phẩm này là bao lâu? Cách thức công nhận như thế nào? Danh mục sản phẩm chủ lực được xác định ra sao? Tính bền vững và tính pháp lý của sản phẩm có được đảm bảo? Thậm chí, cần có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục công nhận,” Thứ trưởng lưu ý.
Đồng thời, theo Thứ trưởng, cần phải xác định rõ những sản phẩm chủ lực này cần gì. “Có nơi thì cần thị trường, nơi cần hoàn thiện công nghệ, nơi cần hỗ trợ đào tạo. Mỗi tỉnh có một đặc thù và định hướng phát triển khác nhau, không thể áp dụng cách làm của tỉnh này cho tỉnh khác được”, ông nhấn mạnh. Khi các nội dung này đã được xác định rõ, các nhiệm vụ của chương trình hay hình thức thực hiện mới có thể được xây dựng và tiến hành phù hợp hơn, chẳng hạn như khu vực nào cần sử dụng nhiệm vụ khoa học công nghệ, khu vực nào cần hỗ trợ trực tiếp,... “Nếu đề xuất mà không tính đến tính khả thi thì rất khó để đảm bảo có cơ sở pháp lý để triển khai”, Thứ trưởng lưu ý.
Từ góc nhìn của các địa phương, việc tập trung vào sản phẩm nào cũng là một trong những yếu tố then chốt quyết định tính hiệu quả của chương trình mới. “Ở Bắc Giang có nhiều sản phẩm mang màu sắc riêng, nếu chúng ta phát triển tốt, sản phẩm đó sẽ trở thành sản phẩm chủ lực”, ông Nguyễn Thanh Bình - Giám đốc Sở KH&CN tỉnh Bắc Giang cho biết. “Dự thảo hiện đang tập trung vào những sản phẩm đã có quy mô rất lớn, ví dụ như vải thiều Bắc Giang, tuy nhiên, với sản phẩm này thì chúng tôi cũng không biết phải chuyển giao công nghệ gì nữa”, ông Bình chỉ ra một thực tế. Theo ông, chương trình nên tập trung vào những sản phẩm có tiềm năng, đưa chúng vào chương trình để sau 5-10 năm có thể trở thành sản phẩm chủ lực, còn đối với những sản phẩm đã là chủ lực rồi thì không cần thiết phải đầu tư thêm.
Và khi đã có sản phẩm, điều mà hầu hết địa phương trăn trở là làm thế nào để sản phẩm ra được thị trường. “Hiện nay, điều mà các địa phương đang rất quan tâm là sản phẩm chủ lực, phần lớn đều nằm trong danh mục sản phẩm OCOP. Như ở Quảng Nam, chúng tôi có hơn 400 sản phẩm OCOP. Tuy nhiên, giống như nhiều địa phương khác, vấn đề đặt ra là: Có bao nhiêu sản phẩm OCOP thực sự ra được thị trường?”, bà Phan Thị Ái Kim, Phó Giám đốc Sở KH&CN Quảng Nam cho hay. “Ý tưởng của chương trình, theo tôi, cần phải tập trung vào việc áp dụng khoa học công nghệ để giải quyết vấn đề này, làm sao nâng cao năng suất, chất lượng và tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường”.
Từ kinh nghiệm thực tế, bà Ái Kim cho rằng, các địa phương đã có sản phẩm rồi nhưng chúng không thể cạnh tranh trên thị trường. “Quy trình công nghệ đã có, nhưng nếu không quan tâm đến sự đồng bộ giữa công nghệ sản xuất và trang thiết bị máy móc thì sẽ không giải quyết được vấn đề. Nếu không hỗ trợ công nghệ và thiết bị sản xuất đồng bộ, chương trình sẽ không đáp ứng được yêu cầu đặt ra”, bà Ái Kim cho biết. “Hiện tại, chúng ta đang thiếu chính sách hỗ trợ các địa phương trong việc trang bị máy móc phục vụ sản xuất. Ở Quảng Nam, chúng tôi đã có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ, nhưng lại không biết tận dụng nguồn lực ở đâu. Nếu nhiệm vụ của chương trình này giải quyết được vấn đề đó, nó mới đáp ứng được đề bài. Nếu không, bài toán nan giải của các địa phương hiện nay sẽ vẫn không thể được giải quyết”.
Mục tiêu cụ thể của chương trình
1. Giai đoạn 2025-2030:
a) Xây dựng được cơ chế chính sách, quy hoạch, kế hoạch, giải pháp phát triển các sản phẩm chủ lực của các địa phương giai đoạn 2025-2035.
b) Chuyển giao khoảng 200 công nghệ, tiến bộ kỹ thuật phục vụ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương.
c) Xây dựng được khoảng 250 mô hình chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực hiệu quả. Các sản phẩm chủ lực được hỗ trợ được nâng cao về năng suất, chất lượng, có sức cạnh tranh, mở rộng được thị trường tiêu thụ. Trong đó, mỗi địa phương có 01-02 sản phẩm chủ lực trở lên được xuất khẩu với số lượng lớn.
d) Đào tạo, bồi dưỡng khoảng 800 nhân lực thực hiện chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; tập huấn được khoảng 2.500 lượt người dân tham gia sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương.
2. Giai đoạn 2031-2035:
a) Xây dựng được cơ chế chính sách, quy hoạch, kế hoạch, giải pháp phát triển các sản phẩm chủ lực của các địa phương giai đoạn 2025-2035 và giai đoạn tiếp theo.
b) Chuyển giao được khoảng 300 công nghệ, tiến bộ kỹ thuật phục vụ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương.
c) Xây dựng được khoảng 350 mô hình chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực, nâng cao được năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, mở rộng được thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
d) Đào tạo, bồi dưỡng được khoảng 1 000 nhân lực thực hiện chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; tập huấn được khoảng 3.500 lượt người dân tham gia sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương.
|