Năm dự án Luật thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ KH&CN vừa được thông qua tại kỳ họp Quốc hội khóa XV đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng về cơ chế chính sách và hành lang pháp lý trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.
Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua 5 Luật mà Bộ KH&CN trình lên, bao gồm: Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp Công nghệ số; Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (sửa đổi); Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (sửa đổi) và Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). Điểm đáng chú ý trong đợt sửa đổi luật này có “rất nhiều tư tưởng mới, những thay đổi mang tính căn cơ đã được đưa vào các luật, với tinh thần làm sao để có thể giải quyết được hết tất cả các vướng mắc, điểm nghẽn trong lĩnh vực khoa học và công nghệ”, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Hoàng Phương cho biết tại buổi họp báo thường kỳ tháng sáu vừa qua.
Thay đổi căn bản phương thức quản lý
Trong đó, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo đã cụ thể hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW - khẳng định vai trò nền tảng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, xem đây là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực thể chế quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Lần đầu tiên, “đổi mới sáng tạo” được đưa vào luật và được đặt ngang hàng với khoa học công nghệ. “Đây là một sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển: Trong khi khoa học công nghệ là hoạt động chuyên môn của các nhà khoa học, tập trung vào nghiên cứu phát triển tri thức và công nghệ mới, thì đổi mới sáng tạo sẽ là của toàn dân”, ông Nguyễn Phú Hùng - Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ - cho biết. Không chỉ thay đổi ở phạm vi khái niệm, luật còn thiết lập một bước chuyển hóa sâu sắc trong tư duy quản lý nhà nước, từ kiểm soát quy trình và đầu vào sang quản lý dựa trên kết quả và hiệu quả đầu ra, đồng thời chấp nhận rủi ro trong quá trình thực hiện. “Trọng tâm của quản lý nhà nước không còn là cách thức thực hiện, mà là tác động thực tiễn do kết quả nghiên cứu mang lại, có cơ chế cho việc thử nghiệm có kiểm soát và chấp nhận rủi ro. Hiệu quả tổng thể sẽ được đo lường và đánh giá kết quả để làm căn cứ phân bổ kinh phí trong các năm tiếp theo”, ông Phú Hùng cho biết.
Điểm đáng chú ý trong đợt sửa đổi luật này có “rất nhiều tư tưởng mới, những thay đổi mang tính căn cơ đã được đưa vào các luật, với tinh thần làm sao để có thể giải quyết được hết tất cả các vướng mắc, điểm nghẽn trong lĩnh vực khoa học và công nghệ”.
Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương
|
Không chỉ vậy, dự thảo Luật cũng xác lập định hướng rõ ràng về việc chuyển từ một quốc gia chủ yếu sử dụng công nghệ sang làm chủ công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, blockchain, chip bán dẫn,... - các công nghệ có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế và an ninh quốc gia. Với sự thay đổi này, ngân sách nhà nước sẽ đầu tư có trọng tâm, ưu tiên cho các nhiệm vụ làm chủ công nghệ chiến lược, thay vì dàn trải như trước, và sẽ được giao cho các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu có năng lực và uy tín thực hiện. Với chủ trương này, Luật cũng chuyển trọng tâm phát triển công nghệ về doanh nghiệp và lần đầu tiên dành ra một chương để quy định các chính sách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. “Doanh nghiệp được khuyến khích mạnh mẽ đầu tư cho nghiên cứu phát triển không chỉ bằng nguồn lực của mình mà còn được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo nguyên tắc ‘Nhà nước chi một đồng thì doanh nghiệp chi ba-bốn đồng’. Các khoản chi cho nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp sẽ được hạch toán như chi phí sản xuất kinh doanh”, ông Nguyễn Phú Hùng cho biết.
Những tư tưởng đổi mới trong phương thức quản lý cũng được thể hiện rõ nét trong Luật Công nghiệp Công nghệ số – bộ luật đầu tiên trên thế giới được ban hành riêng cho lĩnh vực này. Với phạm vi điều chỉnh toàn diện, luật đã mở ra một hành lang pháp lý rộng mở cho các lĩnh vực công nghệ số trọng yếu như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), trung tâm dữ liệu, cùng với đó là các chính sách ưu đãi cho các dự án trọng điểm. Theo đó, các dự án có vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên được hưởng thuế suất 5% trong 37 năm, miễn thuế sáu năm, giảm 50% thuế trong 13 năm tiếp theo, cũng như miễn giảm tiền thuê đất lên đến 22 năm và giảm 75% cho những năm còn lại. Doanh nghiệp nhận hỗ trợ tài chính từ ngân sách, quỹ đầu tư phát triển được tính chi phí nghiên cứu phát triển lên đến 200% chi phí thực tế để tính thuế thu nhập doanh nghiệp,... Luật cũng quy phạm hóa chương trình “Make in Vietnam”, thúc đẩy thiết kế, sản xuất trong nước và khuyến khích chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI. Với mục tiêu hình thành 150.000 doanh nghiệp công nghệ số vào năm 2035, Luật Công nghiệp Công nghệ số đưa ra các chính sách hỗ trợ toàn diện doanh nghiệp vừa và nhỏ: hỗ trợ đầu tư, hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao, ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công, từ đó xây dựng một hệ sinh thái công nghệ vững mạnh, thúc đẩy phát triển nhân lực chất lượng cao, phát triển AI như một phương thức sản xuất mới, định hình địa vị pháp lý cho tài sản số. “Hệ sinh thái công nghệ số được xây dựng với sự hợp tác giữa doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp phụ trợ; các hạ tầng trọng yếu như trung tâm dữ liệu, AI, mạng 5G được ưu tiên đầu tư với sự tham gia của cả nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) được đưa vào để hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo”, ông Nguyễn Khắc Lịch - Cục trưởng Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin - cho biết.
Điểm đáng chú ý là những thay đổi trong phương thức quản lý lần này không chỉ thể hiện ở cách thức đầu tư cho khoa học công nghệ mà còn ở cả phương thức quản lý đối với các sản phẩm, hàng hóa. Theo đó, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (sửa đổi) đã chuyển căn bản từ quản lý hành chính sang quản lý rủi ro; chuyển từ phương thức tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ; và chuyển từ cơ chế khuyến khích sang ràng buộc trách nhiệm, minh bạch và có chế tài xử lý nghiêm. Để đảm bảo sự đồng bộ trong quá trình triển khai, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (sửa đổi) cũng đã cải cách toàn bộ quy trình xây dựng tiêu chuẩn, rút ngắn thời gian xây dựng tiêu chuẩn xuống dưới một năm và thậm chí có thể chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn của quốc tế. “Luật cũng đưa ra nguyên tắc mỗi sản phẩm chỉ áp dụng một quy chuẩn kỹ thuật, chấm dứt tình trạng chồng chéo, giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp”, ông Hà Minh Hiệp - Quyền Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn đo lường chất lượng Quốc gia - cho biết. Luật cũng đơn giản hóa thủ tục công bố hợp quy và cho phép thừa nhận đơn phương kết quả đánh giá sự phù hợp của nước ngoài để từ đó các sản phẩm, công nghệ mới có thể được đón nhận dễ dàng hơn, tránh tình trạng có công nghệ mới nhưng không có đơn vị thử nghiệm ở trong nước đủ năng lực để đánh giá như trước đây.
Trong bối cảnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có một nguồn năng lượng lớn và sạch để đáp ứng đủ nhu cầu phát triển, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) vừa được ban hành cũng góp phần đẩy nhanh tiến trình này với một khung pháp lý cho quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (NLNT), phù hợp với hướng dẫn và luật mẫu của Cơ quan NLNT Quốc tế (IAEA). Với việc xác định điện hạt nhân là chiến lược quốc gia, Luật đã đưa ra các quy định để quản lý toàn bộ vòng đời và tất cả các giai đoạn của nhà máy điện hạt nhân, từ phê duyệt dự án, lựa chọn địa điểm, xây dựng, vận hành thử, vận hành cho đến giai đoạn đóng cửa, từ đó giúp bảo đảm an toàn, an ninh trong phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử nói chung và an toàn hạt nhân nói riêng.
Cần đảm bảo sự liên thông
Một vấn đề được nhiều người quan tâm là cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) lần đầu tiên được vào quy định pháp lý. Đây là cơ chế được tạo ra để chạy và kiểm thử các ứng dụng, phần mềm, công nghệ mới trong một thời gian nhất định mà không ảnh hưởng đến hệ thống chính - một cơ chế đặc biệt quan trọng đối với các hoạt động chịu nhiều rủi ro và ảnh hưởng tới nhiều người như tài chính - ngân hàng. Mobile Money hay cửa khẩu số tại Lạng Sơn là những ví dụ thành công tiêu biểu của cơ chế sandbox, theo Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương. Ông cho rằng, điều quan trọng để cơ chế này thành công là phải có sự quyết tâm của lãnh đạo các bộ, ngành và địa phương. “Vừa rồi nhiều đơn vị có ý kiến rằng cơ chế này chưa rõ ràng, cần một khung cơ chế cụ thể. Vì vậy, Bộ KH&CN đã đưa nội dung về sandbox vào Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo. Không chỉ ngành này, mà rất nhiều ngành khác cũng có thể sử dụng cơ chế này để xây dựng các quy định sandbox riêng, đặc thù cho từng ngành, từng lĩnh vực của mình”, Thứ trưởng cho biết.
Có thể thấy việc xây dựng và thông qua đồng loạt năm luật không chỉ thể hiện sự phối hợp chính sách liên ngành chặt chẽ, mà còn tạo điều kiện để hệ thống pháp luật vận hành hiệu quả, tránh chồng chéo, đứt gãy. Song, dù hành lang pháp lý đang dần hoàn thiện, thách thức lớn nhất vẫn nằm ở khâu thực thi.
Luật KH&CN và ĐMST chuyển trọng tâm phát triển công nghệ về doanh nghiệp và lần đầu tiên dành ra một chương để quy định các chính sách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. ------- Luật Công nghiệp công nghệ sốđã mở ra một hành lang pháp lý rộng mở cho các lĩnh vực công nghệ số trọng yếu như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), trung tâm dữ liệu, cùng với đó là các chính sách ưu đãi vượt trội cho các dự án trọng điểm. ------- Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (sửa đổi) cũng đã cải cách toàn bộ quy trình xây dựng tiêu chuẩn, rút ngắn thời gian xây dựng tiêu chuẩn xuống dưới một năm và thậm chí có thể chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn của quốc tế. ------- Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (sửa đổi) đã chuyển căn bản từ quản lý hành chính sang quản lý rủi ro; chuyển từ phương thức tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ; và chuyển từ cơ chế khuyến khích sang ràng buộc trách nhiệm, minh bạch và có chế tài xử lý nghiêm ------- Với việc xác định điện hạt nhân là chiến lược quốc gia, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) đã đưa ra các quy định để quản lý toàn bộ vòng đời và tất cả các giai đoạn của nhà máy điện hạt nhân, từ đó giúp bảo đảm an toàn, an ninh trong phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử nói chung và an toàn hạt nhân nói riêng.
|
Không ít người băn khoăn, những vướng mắc trong lĩnh vực khoa học công nghệ từ trước đến nay không chỉ liên quan đến Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo mà còn “dính dáng” đến rất nhiều luật khác như Luật Ngân sách, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công hay là Luật Viên chức. Chẳng hạn, Luật sửa đổi lần này cho phép các nhà khoa học, có thể thành lập doanh nghiệp nhưng Luật Viên chức lại chưa cho phép điều đó. Vậy khi Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo có hiệu lực, những mâu thuẫn và chồng chéo với các luật khác sẽ được giải quyết như thế nào để các chủ trương, chính sách về khoa học công nghệ thực sự có hiệu quả trong thực tế? “Trong quá trình xây dựng luật, chúng tôi đã làm việc rất mật thiết với Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính. Và trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, nhiều luật trong lĩnh vực tài chính cũng đã được sửa đổi để giải quyết đồng bộ tất cả vướng mắc. Trước mắt, các vấn đề cơ bản đã được tháo gỡ, và qua các nghị định hướng dẫn sắp tới, chúng ta sẽ thấy rõ điều này hơn”, ông Nguyễn Phú Hùng cho biết.
Để tiến tới giải quyết tất cả những vướng mắc có thể xảy ra trong quá trình phát triển, Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương cho biết, từ nay đến tháng 10, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục xây dựng bốn dự thảo luật quan trọng khác là: Luật Chuyển đổi số, Luật Công nghệ cao, Luật Sở hữu trí tuệ, và Luật Chuyển giao công nghệ. “Đây cũng là những hành lang pháp lý hết sức quan trọng. Khi các luật này được sửa đổi xong, hành lang pháp lý cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam về cơ bản sẽ được hoàn thiện”, Thứ trưởng cho biết.
Bài đăng KH&PT số 1351 (số 27/2025)